Tuesday, March 31, 2015

HUẾ, QUÊ NGOẠI CỦA TÔI

Nguyễn Thị Quỳnh Thanh

Cô Nguyễn Thị Quỳnh Thanh là môt giáo chức dạy Việt Văn ở Việt Nam. Hiện cô định cư tại Úc. Cô cũng đã đã có nhiều bài viết với bút hiệu Nguyễn Thị Thanh. Lời văn của cô nhẹ nhàng, giản dị và đầy hình ảnh, được diễn tả từ một tâm hồn yêu quê hương tha thiết. Xin mời quý vị đọc bài hồi ký sau đây của cô Quỳnh Thanh để càng yêu Huế hơn, "yêu dáng vẻ trầm tư, sâu lắng của Huế", Huế của những ngày tháng vô tư, mơ mộng, của tâm hồn tự do trong sáng. (Câu Lạc Bộ Nguyễn Công Trứ - Úc Châu)

Chị em chúng tôi được sinh ra và lớn lên tại một địa danh tên gọi là Thành, cách Nha Trang độ mười cây số, trong một ngôi từ đường cổ kính và to lớn của bên nội.

Qua cơn xoáy nghiệt ngã của đất nước ở những năm đầu thập niên năm mươi, gia đình tôi cũng bị cuốn theo với biết bao thăng trầm và chia ly tán tác.

Quyết định rời bỏ ngôi từ đường để đến sống một nơi khác không phải là chuyện dễ đối với ba mạ chúng tôi, khi phải âm thầm rời bỏ tổ ấm với một đàn con còn nhỏ dại mà trong lưng chỉ có chút tiền vừa đủ để mua vé xe đò chạy đường xa.

Tôi còn nhớ, trong đêm hôm ấy, mạ tôi xếp một ít áo quần rồi đánh thức chúng tôi dậy bảo đi theo mạ.

Nhà cửa vẫn để y nguyên, mấy đứa líu díu đi theo mạ mà không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mạ tôi đón một chiếc xe đò, chúng tôi im lặng lên xe và thấy ba tôi đã ngồi trong xe rồi.

Cuộc ra đi đúng là một cuộc chạy trốn!

Bốn chị em chúng tôi đến với Huế, quê ngoại của chúng tôi trong hoàn cảnh như thế đó!
Cầu Trường Tiền - Sông Hương
Tiếng là quê ngoại, nhưng tôi chẳng biết gì nhiều, ngoài một cách mơ hồ, đó là nơi của Vua Chúa ngày trước, với cung điện nguy nga, cung nữ dập dìu, với sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài…

Kinh Thành Huế
Chị em chúng tôi lần lượt được các cậu mợ và dì dượng đón về nuôi. Mỗi đứa ở với một gia đình và có thân phận riêng…

Tôi đến Huế đúng vào mùa đông giá lạnh, cái lạnh khủng khiếp mà tôi chưa hề tưởng tượng.

Mưa xứ Huế sao mà dai dẳng, có khi cả tháng trời chưa dứt, khiến Dì tôi cứ ca cẩm hoài: “Mưa gì mà thối đất thối đai, chẳng làm được gì cả!”

Những ngày đầu tiên ở Huế, tôi như bị choáng ngợp bởi những lo âu và sợ hãi. Trời mưa, Huế thật buồn. Đêm về trong cô đơn, tôi lại nhớ Ba, nhớ Mạ, nhớ đàn em nhỏ đang phiêu bạt ở một nơi nào đó của một vùng đất mới được khai thác và thành lập.

Trường TH Võ Tánh - Nha Trang
Từ trường trung học Võ Tánh Nha Trang tôi được chuyển về trường nữ trung học Đồng Khánh, Huế.

Cổng Trường Nữ TH Đồng Khánh (ảnh trước 1975)
Lúc đầu tôi cứ thầm ngạc nhiên về tên gọi của ngôi trường, tại sao người ta không chọn tên của một bà Hoàng hậu hay Công chúa tài danh đức độ để đặt cho trường Nữ, mà lại lấy tên của một vị Vua gần cuối đời nhà Nguyễn? Nhưng lâu dần, những thắc mắc ấy cũng đi vào quên lãng, và trong tôi Đồng Khánh chỉ còn là tên gọi của một ngôi trường Nữ đáng yêu, chứ không còn phảng phất hình ảnh của vị Vua nữa.

Ở trường, tôi hầu như bị lạc lõng. Những tiếng mô tê răng rứa... mà tôi chưa biết sử dụng đã khiến mình càng bị cô đơn hơn giữa chỗ đông người xa lạ. Ngày ngày lầm lũi đến trường tôi chẳng biết Huế đẹp, Huế thơ ra sao cả, chỉ thấy cái rét khủng khiếp luôn vây khốn tôi.

Hàng cau xanh nơi thôn Vỹ Dạ
Tờ mờ sáng, từ Vỹ Dạ tôi phải đội mưa qua khu Chợ Mới, Phủ Ba Cửa, khép nép trong manh áo mưa qua Đập Đá gió lộng bốn bề, đi dưới Hàng Me lướt thướt mưa rơi, ngang qua Tòa Khâm hoang vắng, dọc theo khu Đại học với vỉa hè bóng loáng trơn trớt, men theo các dinh thự, qua khỏi Tòa Hành Chánh...mới đến được trường.

Chiếc áo mưa mng manh không đ che kín tôi. Trên đường ln li ti trường, áo qun ca tôi ướt nhiu hơn khô. Lm khi tôi phi chu đng cái ướt lnh trong sut bn tiết hc bui sáng. Bui trưa tôi phi li trường đ ch các tiết hc bui chiu. Khi hi kng khua vang báo hiu mt ngày hc đã chm dt thì bên ngoài mưa vn dm d. Tôi chán nn lê lết tr v nhà và cái ướt lnh li làm kh tôi mt ln na.

Ngày hai buổi đi về, nhìn qua bên kia đường, giòng Hương Giang cũng đang mịt mờ khói sóng. Có nhiều hôm vừa đi vừa ngậm ngùi cho số phận nên nước mắt cùng nước mưa tha hồ mà tuôn chảy...

Mùa Đông, Huế quá lạnh mà đời sống của người dân xứ Huế cũng khá nghèo. Huế nghèo vì tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, đất đai chật hẹp lại thêm bão lụt hàng năm. Gia đình Dì Dượng tôi cũng khá chật vật, nhưng nhờ sự lo toan, vén khéo của Dì cùng sự hiểu biết chăm chỉ của Dượng nên sinh hoạt gia đình cũng tạm ổn.
Dì tôi có nghề làm bánh Huế bán ở chợ Đông Ba, Dì lại rất khéo trong việc nấu nướng nên mâm cơm của gia đình bao giờ cũng ngon mắt, nhưng cũng rất khiêm tốn, vì vậy trên bàn ăn lúc nào cũng có sẵn một chiếc khay đựng các thứ muối như muối tiêu, muối ớt, muối mè, muối đậu, muối sả...để ăn dặm thêm cho trọn bữa. Dì cũng dạy cho chúng tôi nhiều bí quyết trong việc nấu ăn.

Dù khó khăn đến mấy thì thời gian vẫn cứ trôi. Tôi quen dần với sinh họat gia đình của Dì Dượng và cũng quen dần với Huế.

Mùa xuân đến, con đường tôi đi học không còn vất vả, âm thầm. Bên tôi đã có những người bạn chung đường, tuy chưa thân nhưng cũng vui chân bước. Cảnh vật đã thay đổi hẳn. Chân cứ bước vội, nhưng tôi đã bắt đầu khám phá được những nét đẹp lạ lẫm đáng yêu của Huế. Tôi cảm nhận được sự nhẹ nhàng, thanh thoát từ khóm trúc nhà ai đang la đà lã ngọn, từ hàng rào dâm bụt đơm bông, từ những bụi tường vi hoa vàng xinh xắn...Con đường đi học bây giờ đẹp và an bình như một hương lộ!

Ở trường, tôi cũng không còn sợ hãi những gương mặt lạnh lùng của các bà giám thị già nghiêm khắc.

Trong lớp, tôi cũng không còn bị các bạn quan sát một cách soi mói. Tôi bắt đầu nhận được những tia nhìn ưu ái của Thầy Cô. Từ đó, tôi tự tin hơn, hòa nhập được vào không khí yên bình trong việc học và cảm thấy yêu mến, tự hào về ngôi trường Đồng Khánh của tôi.

Mùa xuân Đồng Khánh đẹp vô cùng! Màu đỏ của ngôi trường nổi bật giữa màu xanh lá non của những hàng phượng vĩ và những thảm cỏ xanh. Trong giờ chơi chúng tôi tung tăng nô đùa như đàn bướm lượn. Áo trắng bát ngát sân trường và những mái tóc thề của tuổi ô mai cứ theo gió mà bềnh bồng. Giờ chơi, chúng tôi cũng thường đi tìm các chị "người đẹp" ở các lớp lớn để chiêm ngưỡng. Ôi các chị mới đẹp làm sao! Vào thời kỳ trổ mã ở tuổi dậy thì, trong nét dịu dàng của con gái Huế, cái đẹp của các chị đã bắt đầu pha thêm vẻ kiêu sa lộng lẫy, các chị đẹp đến nỗi như chúng tôi còn phải say mê thì hỏi làm sao các thầy giáo trẻ tránh khỏi những giây phút bồi hồi rung động!

Nếu giờ chơi tạo cho Đồng Khánh một nét linh hoạt vui tươi, một nơi chốn riêng của các cô gái thì giờ tan học lại rộn ràng sự đón đưa của các chàng trai bên ngoài cổng trường.

Thuở ấy dễ gì mà đón đưa được các cô em Đồng Khánh! Rất khó làm quen với các nàng ở ngoài đường. Các chàng phải bình tâm kiên nhẫn, ngày ngày lẽo đẽo theo sau các người đẹp cái đã. Cách tốt nhất của các chàng là đậu xe dọc bên các hàng cây, lặng ngắm các nàng áo trắng dịu dàng, thướt tha dọc đường Lê Lợi rồi âm thầm theo sau cho đến khi nàng khuất sau hàng dâm bụt trước sân. Trở về nhà, có chàng sẽ ra ngẩn vào ngơ, trách sao người đẹp quá vô tình, để rồi không lâu sau đó những chàng này sẽ trở thành những thi sĩ "chép thơ".

Thật ra thì các chàng đã lầm! Các nàng không vô tình đâu. Họ biết cả đấy, biết ở đâu đó có những đôi mắt dõi theo, biết ở khúc đường nào sẽ có những kẻ bám đuôi đưa mình về đến ngõ. Biết thì biết chân họ vẫn bước, vành nón vẫn nghiêng che và trong lòng cũng không thiếu những rộn ràng.
Con gái Huế là vậy đó! Ngoài đường phố thì nghiêm trang, kín đáo thẹn thùng, nhưng nếu bạn bè mà tụ tập lại thì các nàng líu lo chẳng khác gì chim hót, và cũng tinh nghịch chẳng khác nào một lũ tiểu yêu!

Tình cảm Thầy Trò của Đồng Khánh chúng tôi cũng khá đặc biệt.

Học sinh rất quý trọng và đôi khi còn ngưỡng mộ Thầy Cô nữa. Các cô giáo trẻ thường được học trò yêu mến hết lòng. Tôi còn thấy bên ngoài lớp học, các chị học sinh lớn gọi các cô giáo trẻ bằng Chị xưng Em rất thân mật. Còn các thầy giáo trẻ thì rất nghiêm nghị, không dám để mắt lâu đến một nữ sinh nào, có lẽ đó là cách để các "nhà mô phạm" che dấu những bồi hồi trước đám nữ sinh xinh đẹp dễ thương và đầy quyến rũ đó thôi, chứ trên đời này làm gì có những con người mang quả tim sắt!

Hết Xuân thì đến Hạ, Mùa Hè của Huế là mùa của hoa Phượng.


Trong sân trường Đồng Khánh, phượng đỏ đua nhau nở rộ. Cây Phượng trước lớp nào mà đơm được nhiều hoa thì cả lớp mừng rỡ, vì ai cũng tin rằng hoa phượng đem lại nhiều điều may mắn. Mùa Hè cũng là mùa thi cử, của tạm biệt và chia phôi, mùa của "nỗi lòng hoa phượng". Thư xanh lưu bút được chuyền tay. Chúng tôi làm thơ chép nhạc tặng bạn với niềm lưu luyến thiết tha! Biết là xa nhau chỉ có ba tháng mà sao hồi đó chúng tôi đã bày tỏ sự chia xa quá ư buồn thảm. Dùng sáo ngữ hơi nhiều trong những dòng lưu bút "đừng vì phượng đỏ ve sầu mà quên mình nhé!" hoặc "mong sao ba tháng hè qua nhau để chúng mình mau gặp lại".

Chúng tôi cũng trao nhau những tấm ảnh đẹp nhất với lời đề tặng, những câu mà bây giờ nhớ lại tôi thấy "cải lương" đến đứt ruột như "Mai sau ảnh có phai mờ, xin đừng xé bỏ mà đau lòng này". Ngoài việc trao nhau để mãi nhớ nhau, chuyện tặng hình cũng có thể cố tình dụng ý gởi gắm, như thể giới thiệu mình với "trời cao sông rộng, biết gởi lòng về nơi mô".

Bây giờ nhớ lại sao lòng tôi vẫn rưng rưng nhớ! Tuy nhiên "lưu bút ngày xanh" cũng là một cơ hội tốt để chúng tôi tập làm thơ và viết văn, biết cách trải lòng mình trên trang giấy.

Hè của Huế cũng kinh hoàng lắm! Nắng đổ xuống như thiêu như đốt. Nóng đến chảy nhựa đường. Cái nóng làm cho người ta ngộp thở, lại thêm muôn ngàn chú ve sầu cứ râm rang tấu nhạc suốt ngày đêm làm cho người ta cứ bứt rứt đứng ngồi không yên. Nhưng mùa hè cũng cho chúng tôi lắm điều thú vị. Ban đêm chúng tôi thắp đèn ra sân, bôi nhựa mít vào đầu gậy để bắt ve non. Những chú ve non còn xanh mướt, nhẹ như bấc, nằm im lìm bất động sau một hồi đau đớn lột bỏ được lớp vỏ ngoài để rồi sau đó các chú hút nhựa cây và ca hát cho đến hết mùa Hè. Chúng tôi bắt được cả thùng, hôm sau lại đem đổ đi. Bây giờ thì trở thành món đặc sản trong nhà hàng, khách sạn rồi. Bây giờ con gì mà nhúc nhích được là ăn tất. Không biết dân nghèo có đỡ khổ không nhỉ? Có những hôm, trời vừa tắt nắng, chúng tôi chơi trò đuổi bắt các sợi tơ trời. Tơ trời có màu trắng, có vị mặn bay la đà rất nhiều trên không.
Sông Hương mùa hè

Chỉ có mùa Hè là chúng tôi có thể tắm sông Hương, nước trong trẻo, nhưng có vị lờ lợ là vì cứ đến mùa Hè là sông Hương bị nước biển tràn vào!! Cũng đành phải chịu thôi, nhưng ở Huế nhà nào cũng có giếng, nước ngọt vô cùng.

Sau chuyện tắm sông, đi núi, đi lăng, đọc truyện...cái thú nhất là ăn quà vặt của bọn con gái chúng tôi. Thuở ấy, con gái không dám ăn quà ở dọc đường, không dám lê la ở chợ, nhưng rất sành điệu ở các hàng quán nhỏ, vừa kín đáo lại vừa túi tiền ít ỏi của tuổi học trò.

Đầu tiên là bánh bèo. Muốn ăn bánh mỏng và trong, bánh nóng hổi, vừa thổi vừa ăn thì qua bánh bèo Tây Thượng. Muốn ăn bánh được hấp trong những chén nhỏ, bánh dày nhưng không dai, không bở thì lên Ngự Bình. Mỗi nơi đều có cái ngon riêng, nhưng nói chung thì bánh bèo Huế mang một hương vị đặc biệt nhờ nước mắm vừa cay vừa ngọt, vị ngọt của tôm tươi, ăn hoài không chán! Nhân đây, tôi kể các bạn nghe Dì tôi dạy rằng khi pha nước mắm để trộn gỏi thì phải chua, còn nước mắm cho các loại bột thì phải ngọt. Đúng lắm các bạn ạ!

Bún Bò Huế
Kế đến là bún bò. Nếu miền Bắc có món Phở thì Huế tôi có bún bò Huế. Huế hồi đó làm ăn theo kiểu "hữu xạ tự nhiên hương", không cần mở tiệm ngay phố, hoặc những con đường lớn; ở đâu miễn là ngon mà giá "bình dân" là người ta tìm đến và quán bún bò Mụ Rớt cũng thế.

Chúng tôi vào quán một cách tự nhiên như chỗ thân quen. Vừa ngồi xuống đã có người đến hỏi "mấy O ưa thời bún chi?" và chỉ mấy phút sau đã thấy đủ tô bún bốc hơi được mang ra. Tô bún Huế bình dân trông hết sức đạm bạc; cái tô chỉ lớn hơn bàn tay búp măng của chúng tôi xòe ra một chút. Nước bún không mỡ màng, không vẩn đục để lộ ra khoanh giò khiêm nhường và những con bún trắng tươi nằm sóng soải, trên mặt tô bún là những lát bò bắp chắc nịch có màu nâu đỏ với những đường gân vàng. Mùi thơm từ tô bún nhẹ nhàng bốc hơi vào hai cánh mũi, chỉ trong chốc lát, tô bún đã vơi đi một nửa. Bún thơm, ớt cay, vừa ăn vừa hít hà, hết tô rồi nhưng bụng vẫn còn thòm thèm...

Cơm Hến - Huế
Hết bún bò thì đến Cơm Hến. Lần đầu tiên ăn cơm hến, tôi đã khổ sở vô cùng. Muỗng cơm hến thứ nhất vừa xong thì vị cay của tương ớt làm cho tôi khựng lại. Một cảm giác nóng bỏng ở cổ họng, len xuống mang tai, xông lên mũi thế là không bị ai đánh mà nước mắt cứ tuôn rơi! Nhưng những lần sau, cơm hến đối với tôi quá đỗi tuyệt vời. Bởi vậy mà có người bảo: bắt đầu ăn được cơm Hến là kể như trúng độc "Hoa tình" (trong truyện Kiếm hiệp). Nghĩa là sẽ đến chỗ thích ăn cơm Hến, thèm cơm Hến và rồi ghiền cơm Hến cho đến cả cuộc đời. Thật ra, cơm Hến là một món ăn của nhà nghèo; một nồi nước luộc Hến, một chén cơm nguội và rau thơm, rau bắp chuối với một ít gia vị như mè, ớt, tiêu...nhưng quan trọng nhất là phải có ruốc Huế thì mới ra cơm Hến.

Ngày nay ở Huế người ta nâng cấp lên để đem cơm Hến vào nhà hàng khách sạn. Cơm hến bây giờ còn có cả giò chả, thịt sườn béo ngậy.

Nhắc đến cơm hến làm tôi nhớ đến Bắp ở cồn Hến. Trên cồn Hến có một thứ bắp của địa phương vừa dẻo, vừa ngọt, vừa thơm. Bắp non thì nấu chè, bắp vừa ăn thì được hái và nấu ngay tại chỗ cho tươi và giữ được vị ngọt của bắp. (Người ta bảo bắp hái rồi đem qua sông thì bắp sẽ không ngọt nữa, chẳng biết có đúng hay không?).

Đến chiều những gánh bắp nóng hổi được mang đi bán khắp nơi trên phố Huế.
Con trai Vỹ Dạ trong bọn chúng tôi nghịch ngợm lắm. Họ thường bơi thi qua Cồn, bẻ trộm bắp...nhưng trớ trêu thay người được thưởng thức những trái bắp no tròn ấy lại là bọn con gái chúng tôi!

Nhờ bún bò Mụ Rớt, cơm hến O Liên, bánh bèo Tây Thượng và cả bắp của mấy chàng...mà chúng tôi quên được phần nào cái nóng bức và mùa Hè cũng qua mau hơn!

Sang Thu trở lại trường bắt đầu một năm học mới, mùa Thu cây quả Huế thật là ngon. Nhãn lồng, bưởi Thanh Trà, xoài ổi...hấp dẫn vô cùng! Chúng tôi chia nhau, giành nhau kêu la chí chóe trong giờ ra chơi hoặc buổi trưa ở lại trường. Me, xoài, chùm ruột...mà chấm muối ớt thì tuyệt cú mèo!

Mùa Thu cũng là mùa hết sức lãng mạn. Trời chỉ se se lạnh, gió chỉ hây hây nên mắt môi bọn con gái chúng tôi càng long lanh duyên dáng. Tôi yêu mùa Thu Huế; tôi yêu những chiếcc khăn voan nhẹ nhàng phất phơ bay trong gió; tôi yêu tiếng hò trên sông Hương; tôi yêu tiếng chuông chùa...và trong suy nghĩ đã có điều mộng mị, ước mơ...Ôi, con gái là thế! Con gái thật tuyệt!

Huế trong tôi bây giờ cũng khác. Tôi không còn quá sợ mùa Đông. Tôi mong Đông sang để khoe chiếc áo len ấm áp, mềm mại vừa mới đan xong. Tôi đợi Xuân về với muôn hoa rực rỡ...! Trong tôi đầy ắp những mộng mị và ước mơ...và tôi đang lớn lên từng ngày với Huế!

Tôi yêu Dì tôi như Mẹ, mỗi khi đi đâu về mà không thấy Dì là tôi chạy đi tìm để được an tâm. Tôi thương đám anh chị họ của tôi nhiều lắm. Các anh chị đã xem tôi như anh em ruột thịt trong nhà. Chúng tôi đã cùng nhau học hành, cùng nhau vui chơi và cùng nhau làm việc phụ Dì tôi trong việc bánh trái.

Sau Đồng Khánh, tôi may mắn trúng tuyển vào viện Hán học Huế. Ngày ấy, Hán học là một phân khoa mới nên chưa có giảng đường riêng, chúng tôi phải học tạm trong một cơ ngơi của thành nội.

Điện Thái Hòa, Thành Nội Huế
Các thầy ở Viện đa số là già. Có vài thầy còn mặc áo dài ta, khăn đóng khi đứng ở bục giảng. Các thầy rất uyên thâm và thật hiền từ. Chúng tôi thường được các thầy cho đi tham quan bên trong Đại nội. Các thầy giảng giải và giới thiệu từng nơi, từng chỗ. Đây là khuê các của cung phi mỹ nữ, nọ là áo mũ của những vị quan già. Kia là xa giá của Vua, là Điện Thái Hòa, nơi Vua thiết triều trong những ngày đại lễ. Chúng tôi đã thật xúc động, đi lại nhẹ nhàng, kính cẩn ở chốn tôn nghiêm nhưng cũng rất tò mò muốn biết về những chuyện "thâm cung bí sử" ở Cung đình. Cho nên:

Chạm vào một viên gạch
Nghe rờn rợn ở trên lưng
Tôi nhắm hai mắt lại
Thấy mình giữa lãnh cung...
(Thơ Trần Mộng Tú)

Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Tôi còn nhớ mỗi lần Tổng Thống Ngô Đình Diệm về Huế đều có đến thăm Viện. Ông thường đi vào từng lớp, thích thú nhìn bọn trẻ chúng tôi đang nghiên đầu mài mực để luyện chữ Hán bằng ngọn bút lông. Ông rất quan tâm đến môn Hán học; nhưng rất đáng tiếc, sau khi ông qua đời (1963) thì viện Hán học cũng bị giải thể! Thế là các học viên đều phải "xẻ đàn tan nghé" để sang các phân khoa khác.

Gần mười năm ở Huế của tôi không phải là một quãng thời gian dài để có được những trải nghiệm như những người sinh ra và lớn lên tại Huế. Vậy mà từ lúc nào không hay, Huế đã biến tôi thành một cô gái Huế mộng mơ nhưng cũng có nhiều nghị lực. Với tôi, mười năm ở Huế là mười năm nhọc nhằn, nhưng cũng là mười năm đầy ắp những kỷ niệm và tình thương trong sự đùm bọc tận tình của những người thân bên ngoại. Như người ta thường nói "cánh cửa này khép lại, sẽ có cánh cửa khác mở ra". Quả đúng như vậy. Nếu trong hoàn cảnh bế tắc của gia đình tôi năm ấy mà không có bàn tay rộng mở của các cậu mợ, dì dượng thì làm sao chị em chúng tôi được an tâm học hành.

Giờ đây trên quê người, tôi luôn nhớ về Huế với tất cả cảnh cũ người xưa vì đã hơn 50 năm tôi chưa về thăm Huế một lần. Tôi yêu dáng vẻ trầm tư, sâu lắng của Huế. Những người thân và bè bạn có kẻ mất người còn; nhưng họ đã phải chịu đau đớn với biến cố Mậu Thân (1968) và rồi với đại nạn 1975, họ đã tán loạn khắp bốn phương trời.

Tôi vẫn biết chừ Huế đang thay đổi. Những festival, lễ hội, du lịch...đã làm Huế màu mè hơn, đông đúc ồn ào hơn. Huế đã mở toang cửa Hoàng thành để đón du khách khắp nơi. Ai cũng được làm Vua, ai cũng được làm Hoàng hậu (miễn có tiền). Họ được thưởng thức những "Nem Công Chả Phụng" trong tiếng nhạc Cung đình. Có phải nhà nước họ đang làm công tác bảo tồn văn hóa?
Ôi! Còn đâu chốn tôn nghiêm và tinh thần Huế!

Nguyễn Thị Quỳnh Thanh

Sunday, March 29, 2015

Những bài THƠ TÌNH của Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Đăng Thảo sưu tập

Nguyễn Công Trứ là một vị quan thanh liêm vì dân vì nước. Ông đã có những lý tưởng sống ở đời và đã hành động bằng những lý tưởng đó. Dù khi sống đời một hàn sĩ nghèo khó hay là một vị đại thần từng giữ những chức vị cao như Thượng thư, Tổng đốc, mang hàm Chánh Nhị Phẩm, chỉ dưới hàm Chánh Nhất Phẩm trong hệ thống Cửu phẩm (9 phẩm, mỗi phẩm có hai cấp) với 18 cấp quan lại trong triều đình nhà Nguyễn, ông vẫn một mực phong lưu đa tình.

Nguyễn Công Trứ đã để lại cho chúng ta khá nhiều bài thơ ông sáng tác về tình yêu nam nữ. Đây cũng là một hiện tượng hiếm quý trong thơ văn cổ điển của chúng ta. Sống trong một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề tư tưởng Khổng giáo, người phụ nữ được dạy là phải có “công, dung, ngôn, hạnh”, phải kín cổng cao tường, giam mình trong chốn phòng the khuê các. Nam nữ không được tiếp xúc nhau. “Nam nữ thọ thọ bất tương thân”. Xã hội đã quan niệm “Trai thời trung hiếu làm đầu / Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” (Hai câu thơ mở đầu trong tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu). Theo lễ giáo truyền thống, sự giao tiếp tự do giữa nam nữ bị ngăn cấm, bị cho là vi phạm thuần phong mỹ tục, làm xấu mặt gia đình, ô danh gia tộc. Do đó, trong thi văn cổ điển, chúng ta thấy rất ít bài thơ nào diễn tả về tình yêu trai gái.

Sau đây, xin mời quý bạn đọc những bài thơ tình của Nguyễn Công Trứ để xem ông diễn tả tình yêu nam nữ như thế nào? Xin hiểu rằng ông sáng tác những bài thơ này vào khoảng cuối Thế kỷ 18 đến khoảng giữa Thế kỷ 19. Các bài thơ được sắp theo thứ tự abc. (Nguyễn Đăng Thảo)

Bỏ Vợ Lẽ Cảm Tác

Mười hai bến nước, một con thuyền 
Tình tự xa xôi, đố vẽ nên! 
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy (1)
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền 
Rồi đây nỏ (2) biết quên hay nhớ 
Từ đó mà mang nợ với duyên 
Tình ấy trăng kia như biết với 
Chia làm hai nửa giọi hai bên!

----------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Lời chia tay giấy ngắn tình dài
(2)  Chẳng, không
Bỡn Cô Đào Già (1)


Liếc trông giá đáng mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười


Giăng xế nhưng mà cung chửa khuyết
Hoa tàn song lại nhị còn tươi
Chia đôi duyên nọ đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười
Vì chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi
--------------------------------------------
(1) Cô đào ở đây chỉ Hiệu Thư, là cô đào nương hát Ả Đào mà NCT từng say mê khi còn là một hàn sĩ. Là một nghệ nhân đánh đàn đáy giỏi trong nghệ thuật hát Ả Đào, ông đã xin làm người “kép” đệm đàn cho nàng để được gần nàng khi đi hát các nơi. Trong một lần đi trình diễn, ông đã bồng bột tỏ tình với nàng giữa cánh đồng khi xưa. Trong một buổi lễ sinh nhật của ông khi đang làm Tổng đốc Hải An, là một người yêu thích nghệ thuật hát Ả Đào, ông đã mời đào nương đến hát. Thật bất ngờ, cô đào nương hôm đó lại chính là người tình cũ Hiệu Thư trên cánh đồng năm xưa. Hai người gặp lại nhau. Tình yêu vẫn còn đầy và ông cưới nàng làm thiếp. Ông sáng tác bài thơ này để ghi lại buổi tương phùng ấy.

Bỡn Nhân Tình (1)

Tau ở nhà tau, tau nhớ mi, (2)
Nhớ mi nên phải bước chân đi.
Không đi mi nói răng không đến?
Đến thì mi nói đến mần chi?
Mần chi ta đã mần chi được?
Mần được ta mần đã lắm khi.

--------------------------------------------------------------------------------------
(1) Theo giai thoại thì Nguyễn Công Trứ làm bài thơ này sau khi đã về hưu. Ông hay đi hát Ả đào. Ông tự viết lời cho đào nương hát. Ông thoải mái nghe bài hát và rung đùi thưởng trống mỗi khi đắc ý. Có một cô đào trẻ chừng mười sáu mười bảy tuổi mê cái tài hoa khác người của Cụ, còn Cụ thì mê nhan sắc mơn mởn đào tơ của cô nàng nên họ thành nhân tình với nhau. Cụ bận, lâu không đến thì cô trách. Cụ nhớ nên tìm đến thì cô hỏi kiểu hờn mát đến mần chi?. Trớ trêu thế nên Cụ mới làm bài thơ này để nói lên tâm trạng phức tạp của mình.
(2) Vì Nguyễn Công Trứ là người Hà Tĩnh nên ông dùng ngôn từ thông dụng của dân gian miền Trung như : mi = mày, tau = tao, răng = sao, chi = gì, mần = làm
Ca Tự Biệt

Kẻ về người ở
Bồi hồi thay lúc phân kỳ
Khéo quấy người hai chữ tình si
Lửa ly biệt bầng bầng (1) không lúc nguội!
Bát ngát trăm đường bối rối
Biệt thì dung dị, kiến thì nan
Trót đa mang khúc hát cung đàn
Nên dan díu mối tình chưa dứt
Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời
Khi ra vào tiếng nói giọng cười
Một ngày cũng là người tri kỷ
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ
Gánh tương tư riêng nặng bề bề?
Thương thay người ở đôi quê
Nẻo đi thì nhớ, nẻo về thì thương!
Tính sao cho vẹn trăm đường?
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Bng bng
Chữ Tình

Mữu:
Chữ tình là chữ chi chi,
Dẩu chi chi cũng chi chi với tình.
Sầu ai lấp cả vòm trời,
Biết chăng chăng biết hỡi người tình chung ?

Hát nói:
Đa tình là dở,
Đã mắc vào đố gỡ cho ra !

Khéo quấy người một cái tinh ma,
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy !
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy,
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi.

Nực cười thay lúc phân kỳ,
Trông chẳng nói, xiết bao nhiêu biệt lệ.
Tình huống ấy dẩu bút thần khôn vẽ,
Càng tài tình càng ngốc, càng si.

Cái tình là cái chi chi ?



Duyên Gặp Gỡ


Minh quân lương tướng tao phùng dị
Tài tử giai nhân tế ngộ nan (1)
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Trong nhất kiến (2) tình duyên như đã
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã (3)
Quân tử đa tình cánh khả lân (4)
Nọ mấy người tài tử giai nhân
Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải
Đã tình duyên xe lại cũng nên gần
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân
Châu Trần nào có Châu Trần này hơn
Anh hùng hà xứ bất giang sơn? (5)
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Vua giỏi tướng tài dễ gặp nhau / trai tài gái sắc khó gặp gỡ
(2) Một lần gặp mặt
(3)Tỳ bà có duyên may gặp Tư Mã (Tỳ bà ở đây được dùng để chỉ người con gái đẹp và cao sang. Tỳ bà là cây đàn mà những người con gái trong gia đình quyền quý vọng tộc ngày xưa dùng để đánh đàn chơi nhạc. Tư mã tức Tư Mã Tương Như, một danh cầm giỏi thi phú đời nhà Hán bên Tàu. Trác Văn Quân là một quả phụ trẻ đẹp con một vương tôn giàu có, khi nghe Tư Mã Tương Như gãy khúc”Phụng Cầu Hoàng” thì say mê tiếng đàn của chàng và yêu thương người đánh đàn. Nàng bèn bỏ nhà đi theo Tư Mã dù phải sống trong nghèo khó. Hai người sống hạnh phúc bên nhau. Sau Tư Mã muốn cưới thêm một nàng thiếp, Trác Văn Quân sáng tác khúc “Bạch Đầu Ngâm”, chàng nghe cảm động và bỏ đi ý tưởng muốn lấy thêm vợ lẻ)
(4) Quân tử đa tình nên lắm nỗi xót thương
(5) Với khách anh hùng thì nơi nào chẳng là đất nước mình


Gánh Gạo Đưa Chồng

Mưỡu: 
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Hát nói: 
Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất (1)
Thương cái cò lặn lội bờ sông
Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng
Ngoài nghìn dặm một trời một nước
Trông bóng nhạn bâng khuâng từng bước
Nghe tiếng quyên khắc khoải năm canh
Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình
Ơn thuỷ thổ phải đền cho vẹn xóng (2)
Trường tên đạn, xin chàng bảo trọng
Thiếp lui về nuôi cái cùng con
Cao Bằng cách trở nước non
Mình trong trắng có quỉ thần a hộ
Sức bay nhảy một phen năng nổ
Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn
Đồng hưu (3) rạng chép thẻ son
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung
Yêu nhau khăng khít dải đồng
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Cò là loài vật có lông, có tình
(2) Trọn vẹn
(3) Cùng ngh ngơi vui v
Lời Tiểu Thiếp Tự Tình

Buồn sực nhớ đài trang cảnh cũ
Nhớ trượng phu trong dạ bàng hoàng
Mái tây sơn sương tỏa mấy lần
Thân cái nhện không vò mà cũng rối
Chỉn tại tơ hồng trêu quấy nỗi
Há rằng dây đỏ ghét ghen chi
Chốn cô phòng năn nỉ với cầm thi
Đường viễn hoạn ngõ hầu tình chăng nhẽ?
Trong trần thế sầu lây mấy kẻ
Giọng Hà Đông thêm cám cảnh cho ai!
Xin cho giời đất lâu dài
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?
Thấu tình chăng kẻ trượng phu?


Sầu Tình

Sầu ai lấp cả vòm trời
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa (1)
Giống ở đâu vô ảnh vô hình
Cứ tò tò quanh quẩn bên mình
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng
Hỏi trăng gió gió trăng hờ hững
Ngắm cỏ hoa hoa cỏ ngậm ngùi.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Xuân sầu lai láng đất trời

Trách Tình Nhân

Ðứng núi này trông núi nọ cao
Nhân tình ơ hỡ biết làm sao!
Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng
Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều
Non nước nước non ngao ngán nỗi
Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều
Vườn hoa kia để ai rong rả
Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều


Tuổi Già Cưới Vợ Hầu

Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc
Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh
Nhất toạ lê hoa áp hải đường (1)
Từ đây tạc đá ghi vàng
Bởi đâu, trước lựa tơ chắp chỉ
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ?
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam! (2)
Tình đã chung, lứa cũng phải vam (3)
Suốt kim cổ lấy làm vận sự
Trong trần thế duyên duyên nợ nợ
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành
Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần (4) là một với mình là hai
Càng già càng dẻo càng dai!
----------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Một chùm hoa lê ôm sát đóa hoa hải đường (“Chùm hoa lê” để chỉ mái đầu bạc của tuổi già. “Đóa hải đường” chỉ cô gái trẻ đẹp tươi mát như đóa hoa hải đường)
(2) Cô dâu mới hỏi người chồng bao nhiêu tuổi? (Trả lời) Năm mươi năm trước hai mươi ba
(3) “Vam” từ địa phương cổ nghĩa là “vừa”.

Tương Tư

Tương tư không biết cái làm sao?
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào!
Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện
Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao
Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước
Gió thổi bên tai, ngỡ miệng chào
Một nước một non, người một ngả
Tương tư không biết cái làm sao?


Vịnh Chữ Tình

Cái tình là cái chi chi?
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình
Đa tình là dở, đã mắc vào đố gỡ cho ra!
Khéo quấy người một cái tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy!
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi
Nực cười thay lúc phân kỳ
Trông chẳng nói, biết bao nhiêu biệt lệ
Tình huống ấy dẩu bút thần khôn vẽ
Càng tài tình càng ngốc, càng si
Cái tình là cái chi chi?


Vịnh Sầu Tình
Mưỡu: 
Sầu ai lấp cả vòng giời
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung? 

Hát nói: 
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa (1)
Giống ở đâu vô ảnh vô hình
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng
Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững
Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi
Gươm đoạn sầu, thơ trục muộn đủ rồi
Còn lẽo đẽo vô trung sinh hữu
Dục phá sầu thành tu dụng tửu
Tuý tự tuý đảo sầu tự sầu (2)
Rượu với sầu như gió mã ngưu
Trong lai láng biết tránh đâu cho khỏi?
Càng tài tử càng nhiều tình ái
Cái sầu kia theo hình ấy mà ra
Mua sầu tại kẻ hào hoa
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Xuân sầu lai láng đất trời
(2) Để phá bức tường thành sầu đau phải dùng rượu. (Nhưng ) say rượu b té ngã là do say, thì su t nó mang ni su


Vịnh Tỳ Bà

Mưỡu: 
Não nùng một khúc tỳ bà,
Giang Châu tư mã (1) ai là tri âm.

Hát Nói: 
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, (2)
Bóng trăng thu chênh chếch bên thuyền.
Tiếng tỳ bà ai khéo gẩy nên,
Xui lòng khách thiên nhai (3)luống những.
Ai oán nhẽ bốn dây văng vẳng,
Nỗi bất bình như khấp, như tố, như oán, như than. (4)
Nực cười thay cái phận hồng nhan,
Nào những khách Ngũ Lăng (5) đâu vắng tá.
Yên thuỷ mang mang thiên ngũ dạ,
Tỳ bà khúc khúc nguyệt tam canh. (6)
Bến Tầm Dương cảnh ấy xiết bao tình,
Chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt.
Người viễn khách biết chăng chẳng biết,
Khúc đàn này biết gẩy cùng ai.
  Giang đầu hạnh hữu khách lai. (7)
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Vị quan Tư Mã đất Giang Châu, Trung Hoa. Chỉ sự tích về ông Bạch Cư Dị, khi ra làm quan Tư Mã ở Giang châu, nghe người kỷ nữ ở bến Tầm Dương than than trách phận, đã cảm hứng viết nên khúc Tỳ Bà Hành, trong đó có câu:
“Tọa trung khấp hạ thùy tối đa,
Giang Châu Tư mã thanh sam thấp”
Dịch:
Lệ ai chan chứa hơn người,
Giang Châu Tư Mã đượm tà áo xanh
(2) Đêm tiễn khách trên Bến sông Tầm Dương. (Đây là câu thơ mở đầu trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị đời nhà Đường bên Trung Hoa)
(3) Bên trời
(4) Như khóc, như kêu gào, như oán trách, như than thở. (Câu này ở trong bài phú Tiền Xích Bích của Tô Đông Pha đời nhà Tống bên Trung Hoa
(5) “Khách Ngũ Lăng” chỉ những người khách giàu sang hào hiệp
(6) Đêm năm canh khói nước mờ mờ; Khúc nhạc tỳ bà réo rắt suốt ba canh
(7) Bến sông may mắn có khách đến

Yêu Hoa


Ngồi thử ngẫm trăm hoa ai nhuốm
Một hoa là riêng một sắc hương
Khi chưa xuân khép nép bên tường
Còn phong nhụy đợi đông hoàng (1)về cán đáng
Liễu tía, đào hường mai trắng trắng
Lan tươi, huệ tốt, lý xanh xanh
Thêm hương khi gió lá mưa cành
Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím
Khách thập thúy (2)say màu hoa diễm
Đối mặt hoa mà cầm, mà kỳ, mà tửu, mà thi
Khuyên ai đừng dở cuộc ly phi (3)
Trân trọng lấy hương giời cho trọn vẹn
Hoa với khách như đà có hẹn
Ưa màu nào, màu ấy là xinh
Trăm hoa cũng bẻ một cành
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) “Đông hoàng” hay đông quân nghĩa là chúa xuân
(2) Chọn nhặt cái đẹp. “Khách thập thúy” chỉ người du xuân
(3) Chia ly

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Dương Quảng Hàm Văn Học Việt Nam – Hiệu đính theo Chương trình Trung Học, Bộ Giáo Dục Trung Tâm                   Học Liệu Xuất Bản, Sài Gòn, Đại Nam xuất bản lại, Glendale, California, USA, không đề ngày
Phạm Thế Ngũ  Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên – Văn Học Lịch Triều: Việt Văn, Quốc Học Tùng                  Thu, Sài Gòn, Đại Nam xuất bản lại, Glendale, California, USA, không đề ngày
Trương Chính Thơ Văn Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn học, 1983
Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề Việt Nam Ca Trù Biên Khảo, Nxb TPHCM tái bản, 1990
Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung Việt Văn Diễn Giảng Hậu Bán Thế Kỷ Thứ XIX, Trường                         Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953
Đoàn Tử Huyến Nguyễn Công Trứ - Cuộc Đời và Thơ, NXB Lao Động, Sài Gòn, 2011
Trần Trung Viên sưu tập 1926, Hư Chu hiệu chính 1968 Văn đàn bảo giám, Xuân Thu in lại, California, USA,                     không đề ngày
Nguyễn Văn Ngọc Nam Thi Hợp Tuyển, NXB Bốn Phương, Hà Nội, 1951