Nguyễn Đăng Thảo
(B.Ed, Grad.Dip. Mus, M.Ed)
(B.Ed, Grad.Dip. Mus, M.Ed)
I.
Nguyễn
Công Trứ và Gia Thế
II.
Hoàn
Cảnh Chính Trị Lúc Bấy Giờ
III.
Học
Hành Thi cử
IV. Cuộc Đời Quan Lại
V.
Hưu
Trí
VI. Thi Văn Sáng Tác
VII. Kết
I. NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ
GIA THẾ
Nguyễn
Công Trứ lúc nhỏ tên húy là Củng, theo chữ Nho có nghĩa là bền chặc, vững
vàng. Còn tên “Trứ” thì có
nghĩa là rõ ràng, nổi trội.
![]() |
Làng Uy Viễn (Tỉnh Hà Tỉnh) - Quê hương ông Nguyễn Công Trứ |
![]() |
Bản Đồ vị trí tỉnh Thái Bình và Hà Tỉnh |
Ông tự
là Tồn Chất, hiệu là Ngô Trai, biệt
hiệu là Hi văn, quê làng
Uy Viễn, nay là Xã Xuân
Giang, huyện Nghi Xân, tỉnh Hà Tỉnh. Do đó ông được
gọi là Uy Viễn Tướng Công. Ông sinh ngày 1 tháng 11 năm Mậu Tuất đời
vua Lê Hiển Tông
(1717-1786) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778, ở xã Địa Linh, huyện
Quỳnh Côi, nay thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, khi cha ông đang làm quan Tri huyện Quỳnh Côi này. Ông mất tại làng Uy Viễn,
huyện Nghi Xân, tỉnh Hà Tỉnh, ngày 14 tháng 11 âm lịch năm 1858, hưởng
thọ 81 tuổi.
![]() |
Huyện Huỳnh Côi (Tỉnh Thái Bình) Nơi sinh của Nguyễn Công Trứ |
Tương tuyền
rằng, khi được sinh ra, ông không khóc như những trẻ sơ sinh khác, vẫn
nhắm mắt như ngủ dù mọi người
có khua động vang dội ồn ào đánh thức
ông dậy để làm cho ông khóc. Mọi cố gắng
đều không thành công. Ông
vẫn giữ im lặng cho đến
khi mọi người mỏi mệt,
xuôi tay lắc đầu thì mới cất
tiếng khóc oang oang như tiếng chuông đồng. Dân gian cho rằng ông đã bướng bĩnh ngay khi mới sinh ra đời. Chúng ta thấy tính bướng bĩnh, ngông ngạo đã thể hiện
trong suốt cuộc đời của
ông.
Nguyễn
Công Trứ là con Đức Ngạn Hầu
Nguyễn Công Tấn. Ông Nguyễn Công Tấn đậu cử
nhân năm 24 tuổi, làm
Giáo Thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An; sau thăng làm Tri Huyện Quỳnh Côi, rồi Tri Phủ Tiên Hưng, Thái Bình. Năm 1787, khi ông đang làm Tri Phủ Tiên Hưng, quân Tây
Sơn ra Bắc Hà đánh dẹp Nguyễn Hữu
Chỉnh, chiếm Thăng Long. Vua Lê rời bỏ kinh đô, chiêu binh lo việc khôi phục
nhà Lê. Là một trung thần một lòng phò Lê, mang tư tưởng “trung thần bất sự
nhị quân”, Nguyễn Công Tấn đã khởi nghĩa cần
vương, được
Vua Lê phong tước Đức Ngạn Hầu,
làm Tham Tán Quân vụ xứ Nam Sơn để chống cự
với nhà Tây Sơn. Sau vua
Lê thất bại chạy sang Tàu, việc
phù Lê không thành, ông đưa gia đình về
cố hương dựng túp lều tranh, dạy học, sống
đời thanh bần. Ông không hợp tác với nhà Tây Sơn. Vua Quang Trung mấy
lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.
Ông giữ một lòng trung thành với nhà Lê cho đến lúc mất.
Mẹ
Nguyễn Công Trứ là con quan Quản nội thị
Cảnh Bá Nhạc, người xã Phụng
Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh
Sơn Nam, nay
thuộc Hà Nội.
Gia đình Nguyễn Công Trứ
có sáu anh em, ba trai, ba gái, trong đó có một
người chị đẹp và thông minh, giỏi
thơ văn, người
đương thời gọi là Năng Văn Nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết,
bà nhất định không chịu tái giá. Lúc đó có quan Tổng đốc Trần
Thận dạm hỏi nhiều
lần nhưng không được. Sau bà lánh mình, bỏ
nhà đi tu, lấy hiệu là Diệu Điển
thiền sư. Bà
được vua Minh Mạng ban cho danh hiệu “Trinh Tiết Khả Phong”.
II.
Hoàn CẢnh Chính Trị lúc bẤy giỜ
Nguyễn Công Trứ ra đời và lớn lên trong hoàn cảnh loạn lạc, chính trị bất
ổn, chia rẽ và nhiều đổi thay. Đất nước chia đôi. Từ Thuận Hóa trở ra Bắc
là vùng đất đưới sự cai trị của chúa Trịnh (1570-1786) trong danh nghĩa phù Lê.
Từ Thuận Hóa vào Nam thuộc quyền Chúa Nguyễn.
Ngoài Bắc, đây là thời kỳ cuối của Chúa Trịnh, suy yếu, chia
rẽ, tranh giành ngôi Chúa
giữa Trịnh Cán và Trịnh Khải. Cuối cùng, Trịnh Khải đã lật đổ Chúa Trịnh Cán và
lên làm Chúa năm 1782. Từ đó Chúa Trịnh bị loạn kiêu binh và cuối cùng nghiệp Chúa mất vào năm 1786
khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà diệt Chúa Trịnh phù trợ nhà Lê. Vua Lê bấy giờ được
toàn quyển cai trị đất Bắc hà. Sau khi quân Tây sơn rút về Nam, Trịnh Bồng, dòng dõi họ Trịnh, nổi lên muốn lập lại
Phủ Chúa hiếp chế nhà vua. Vua Lê Chiêu
Thống đã phải nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh, một danh tướng Bắc Hà giúp đánh bại Trịnh
Bồng xây dựng lại nhà Lê độc lập. Từ đó, Nguyễn Hữu Chỉnh nắm toàn bộ binh quyền và trở
nên chuyên quyền ở đất Bắc khiến nhà vua lại lo sợ. Năm 1787, quân Tây Sơn do
danh tướng Vũ Văn Nhậm chỉ huy tiến ra Bắc phá tan quân Nguyễn Hữu Chỉnh và bắt
giết ông. Vũ Văn Nhậm lại trở nên kêu ngạo. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lo sợ Vũ
Văn Nhậm làm phản lại kéo quân ra Bắc, bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, cố lập lại nhà
Lê. Tuy nhiên, Vua Lê Chiêu thống đã rời bỏ kinh đô và đang cùng với những
người trung thành với nhà vua lo việc khởi nghĩa khôi phục nhà Lê, trong đó có
Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn, cha của Nguyễn Công Trứ. Các quan lại nhà Lê cũng
bỏ đi, có người tuẫn tiết, chỉ còn ít người ở lại nhận chức quan.
![]() |
Cờ của nhà Tây Sơn |
Sau khi ba anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ trở về
Qui Nhơn, cháu của Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh đã tụ họp các quân
tướng cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên tiến chiếm lại đất Gia Định. Năm 1780,
Nguyễn Phúc Ánh xưng Vương. Năm 1784, Nguyễn Vương đã sang Vọng Các cầu viện.
Vua Xiêm đã cho 20,000 quân cùng 300
chiến thuyền sang giúp. Nguyễn Phúc Ánh đã theo quân Xiêm (Thái Lan) về chiếm đươc
Rạch Giá, Trà Ôn, Sa đéc để tiến lên chiếm lại đất Gia Định. Tuy nhiên, Nguyễn
Huệ đã phá tan quân Xiêm ở gần Rạch Gằm
và Xoài Mút, phía trên Mỹ Tho. Cũng năm này, Giám mục Bá Đa Lộc đã mang Hoàng
tử Cảnh, con của Nguyễn Vương, lúc đó mới 4 tuổi sang Pháp cầu viện. Năm 1788,
Nguyễn Vương chiếm lại Gia Định.
Cuối năm 1788, quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành
Thăng Long trong âm mưu chiếm lấy nước An Nam, tên nước Việt lúc bấy giờ. Ngày
25 tháng mười một năm Mậu thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế. Ông thống
lĩnh đại quân tiến ra Bắc phá tan quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu (Tết Nguyên Đán 1789),
lập nên nhà Nguyễn Tây Sơn (1988-1802). Năm 1792, Vua Quang Trung mất.
![]() |
Hình Vua Quang Trung trên tờ giấy bạc 200 đồng VNCH |
Năm 1790, Nguyễn Vương xuất quân đánh Qui nhơn cho đến năm 1799 thì chiếm được thành. Năm 1801, Nguyễn Vương khôi phục lại thành Phú Xuân. Năm 1802, Nguyễn Vương lên ngôi, xưng Nguyễn Thế Tổ, đặt niên hiệu Gia Long, quốc hiệu là Việt Nam, kinh đô ở Phú Xuân (Huế). Ông đưa quân ra lấy Bắc Hà, tiêu diệt nhà Nguyễn Tây sơn, chấm dứt chiến tranh giữa Chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn khởi đi từ năm 1771.
Hoàn cảnh chiến tranh, chính trị và xã hội lúc bấy giờ đã ảnh hưởng, chi
phối con người và tư tưởng Nguyễn Công Trứ ngay từ lúc tuổi còn thơ. Năm ông ra
đời, 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế ở trong Nam. Năm ông 8 tuổi, lứa tuổi mới lớn bắt
đầu có sự hiểu biết, là lúc Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà diệt Chúa Trịnh. Tự
bản thân gia đình ông cũng bị xoáy cuốn vào cơn bảo táp của thời thế. Cha ông
đã xướng nghĩa Cần vương, cùng với Vua Lê và các trung thần chống lại nhà Tây
Sơn. Rồi cuộc xâm lăng của quân Thanh trong danh nghĩa trợ giúp Vua Lê, Vua
Quang Trung đại phá quân Thanh. Chiến tranh giữa Nguyễn Vương và nhà Tây sơn,
cho đến khi Nguyễn Phúc Ánh thống nhất đất nước năm 1802. Khi đó ông được 24
tuổi. Là một thanh niên đầy năng động, tâm tư ông đã bị giao động với chiến
tranh, với những đổi thay liên tục và nhanh chóng giữa những quyền lực chính
trị: Vua Lê, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm, quân Thanh
xâm lược, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn. Xã hội chung quanh ông mang nhiều tư tưởng
dị biệt, thái độ sống trái ngược nhau. Tất cả đã ảnh hưởng lên con người Nguyễn
Công Trứ.
III.
HỌc Hành Thi CỬ
Nguyễn
Công Trứ ra đời trong cảnh đất nước
ly loạn. Năm ông 11 tuổi, cha ông đã đưa gia
đình về quê nhà sau khi khởi nghĩa Cần vương chống lại quân Tây Sơn không thành. Tuy sinh ra trong một gia đình quan lại
vọng tộc, vì hoàn cảnh chính trị và chiến tranh, vì quan niệm
trung quân của phụ thân, ông sống và lớn lên trong sự
nghèo khó. Cha ông không chịu
ra làm quan với nhà Tây Sơn dù
đã được mời gọi nhiều
lần, chỉ dạy học
trong làng, quyết giữ một lòng trung thành với Vua Lê, sống
trong thanh bần nuôi con
khôn lớn.
Nguyễn Công Trứ hiếu học,
giỏi thơ phú, tánh tình phóng khoáng, ngông, đa tình, đa tài, văn võ song toàn.
Tuy lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, triều đình không mở được các khoa thi,
ông vẫn bền chí dồi mài kinh sử, gắng công đèn sách, đợi chờ khoa bảng để có dịp
chứng tỏ tài năng giúp đời, tạo nên sự nghiệp. Ông thấy, qua học hành và đậu
các khoa thi, ông mới có thể được trọng dụng, ra làm quan, từ đó ông mới có cơ hội
được đem tài ra giúp nước, để lập danh, để thỏa mộng nam nhi vẩy vùng trong bốn
bể.
Dù sống đời một học trò
nghèo trong loạn lạc, con người và xã hội đầy phân hóa, ông vẫn mang tư tưởng
tích cực, hướng thượng, đầy tính năng động, ý chí và lý tưởng, vẫn tin tưởng
vào một tương lai tươi sáng. Khi ông gần đến tuổi “tam thập nhi lập” mới có khóa thi Hương đầu tiên do Vua Gia long mở
ra năm 1807 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn thống nhất đất nước.
“Chí làm trai Nam, Bắc,
Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.” (Chí Làm Trai – NCT)
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.” (Chí Làm Trai – NCT)
“Đi không há lẽ
trở về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
………………………………..
Đã mang tiếng
ở trong trời đất
Phải
có danh gì với núi sông” (Đi
Thi Tự Vịnh – NCT)
Kinh luân khởi
tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung (Kẻ Sĩ – NCT)
Binh giáp tàng hung trung (Kẻ Sĩ – NCT)
Từ
nhỏ, Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ
tư chất thông minh. Ông nổi tiếng là thần
đồng, tài cao, trí sắc, đọc rộng,
nhớ nhiều. Ông cũng tinh nghịch lém lỉnh chẳng ai bằng.
Một giai thoại dân gian kể rằng:
“Khoảng
10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh, sống
tại làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu mặt;
ông đứng ra mời thầy đồ
về nuôi trong nhà để trẻ con của
làng tới học. Và trong đám học trò đó có cậu bé Củng.
Một
hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ
nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy
cho phép ông ra cho các trò một
vế đối. Được thầy
đồng ý, ông Đồ Trung nói:
- Ta có câu đối này, trò nào đối
hay và đối nhanh trước sẽ được
thưởng một quan tiền!
Rồi
ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn,
đọc vế đối:
“Ngoài vườn
cây đại nở hoa đại”.
Các học
trò ngồi nhìn nhau, mặc dù rất thèm quan tiền
(với các cậu đó là một giấc mơ lớn), nhưng không ai
tìm được vế đối lại
để lấy.
Thấy
cả lớp im lặng, thầy
học lên tiếng giục, thì chỉ
có cậu bé Củng ra vẻ ngập
ngừng khó nói. Thầy hỏi:
- Trò Củng,
sao không đối đi?
Củng
khép nép thưa:
- Thưa, con sợ
bị quở phạt ạ.
- Trò cứ
đối, - ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng,
- nếu hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu
có điều gì sơ suất thì ta và thầy cũng không bắt lỗi trò đâu.
Được
lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy
đọc:
- Thưa, con xin đối
là:
“Trong buồng
ông Trung ấp bà
Trung” ạ!
- Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở thì tất
nhiên phải đối với ấp rồi!
Thầy
và trò cả lớp được một
trận cười nghiêng ngả, còn ông chủ nhà Đồ Trung thì đỏ
mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Củng một quan tiền!”
(36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ)
Trong cuộc sống, từ thuở còn là hàn
sĩ, Nguyễn Công Trứ đã nhìn cái nghèo bằng ánh mắt lạc quan, yêu đời, pha đôi
chút hóm hỉnh, khinh bạc, không bi quan yếm thế.
“Miếng
ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.” (Hàn Nho Phong Vị Phú – NCT)
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.” (Hàn Nho Phong Vị Phú – NCT)
Năm 1803, một
năm sau khi vua Gia Long đánh bại
nhà Tây Sơn thống
nhất Bắc Nam, ông đã dâng bài điều trần “Thái Bình Thập
Sách” (Mười kế sách giữ nước nhà thái bình) cho nhà Vua khi vua Gia Long tuần du phương Bắc, dừng chân ở
Nghệ An. Ông đã đưa ra một cương lĩnh giúp đất nước an bình thịnh
trị. Ông được Vua ban khen và triều thần chú ý.
“Giữ lòng trung ái,
Chăm đạo dâu con,
Phát triển nông trang,
Trừ bỏ dị đoan,
Sửa đổi phong tục,
Thanh thải tham tàn,
Tiến cử tài đức,
Giữ nghiêm luật lệ”. (Thái Bình Thập Sách – NCT)
Tuy học giỏi và nổi tiếng tài hoa,
ông bị lận đận trong việc thi cử. Ông bị rớt ba khóa. Có thể khi lều chỏng đi
thi, với bản tính ngông, ông đã biểu lộ ý chí ngang tàng, không giữ lời trong
bài thi nên đã bị đánh rớt chăng (?!).
“Đã xông pha bút trận,
thì gắng gỏi kiếm cung,
Cho rõ mặt tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không, chẳng lẽ
về không?” (Chí Nam Nhi -
NCT)
![]() |
Lễ xướng danh kỳ thi Hương ở Nam Định 1888 - Ảnh Wikipedia |
VI. CUỘC ĐỜi QUAN LẠi
Nguyễn Công Trứ làm quan qua các
triều vua nhà Nguyễn: Gia Long (1802-1819), Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị
(1841-1847) và Tự Đức (1847-1883). Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã
sống thanh liêm, trong sạch và thanh bần. Ông giữ cương thường, chính khí,
chính đạo của người quân tử, tinh thần hào hùng của nam nhi, hào sảng của của
kẻ sĩ, không cố ôm bám vào lợi danh, tham quyền cố vị như những kẻ trọc thanh. Ông
không lợi dụng quan tước để làm giàu cho bản thân và gia đình. Khi khai khẩn
đất hoang lập ra hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Ông không lấy một tấc đất cho
riêng mình. Ông đối diện cái nghèo một cách an nhiên tự tại. Ông là người của hành
động, dấn thân, say mê hoạt động. Ông làm viêc một cách hăng say, đầy năng lực,
không quản ngại gian lao cực khổ, không từ chối bất cứ công việc gì. Ông ra Bắc
vào Nam, đánh trận, khẩn hoang, chấm thi, xử kiện. Ông vẫn giữ vững đạo lập
thân dù nhiều lần bị giáng chức. Ông đem
hết tài năng của mình để phục vụ đất nước, nhân sinh.
“Đạo lập thân phải giữ lấy cương
thường.
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.” (Kẻ Sĩ – NCT)
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.” (Kẻ Sĩ – NCT)
“Gẩm việc đời mà ngắm kẻ
trọc thanh.” (Kẻ Sĩ – NCT)
“Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí,
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên.
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.” (Kẻ Sĩ – NCT)
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên.
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.” (Kẻ Sĩ – NCT)
“Trong lang miếu, ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ sau là khanh tướng.” (Kẻ Sĩ – NCT)
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ sau là khanh tướng.” (Kẻ Sĩ – NCT)
“Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế
…………………………………
Hơn
nhau hai chữ anh hùng.” (Phận Sự
Làm Trai – NCT)
Ông sống gần gũi với dân chúng và
biết lo cho người dân. Ông được dân chúng yêu thương tôn kính, gọi ông là “Cố
Lớn”. Ông đã được thăng thưởng nhiều lần, đến chức Thượng Thư, Tổng Đốc, Chánh
Nhị phẩm, phẩm hạng cao hàng thứ hai tính từ trên xuống trong 18 bậc phẩm cấp
quan chế trong triều Nguyễn mà cao nhất là Chánh Nhất phẩm, nhưng cũng đã nhiều
lần bị giáng chức đến mức làm lính thú, thậm chí có lúc bị kết án trảm giam.
“Thượng
vị đức, hạ vị
dân,” (Phận Sự Làm Trai – NCT)
“Ra trường
danh lợi, vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười” (Con Đường Làm Quan – NCT)
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười” (Con Đường Làm Quan – NCT)
TS Trần Ngọc Vương trong bài viết “Kỷ Niệm 150 Năm Ngày Mất Của Nguyễn Công Trứ: Còn Nhiều Điều Vỡ Lẽ Về
Ông Đang Chờ Phía Trước…” đã cho biết:
“Trong bộ
sử quan trọng nhất của vương triều Nguyễn: Đại Nam Thực Lục, tên tuổi của Nguyễn Công Trứ bắt đầu được ghi
chép từ sự kiện dâng Thái bình
thập sách cho Gia Long (1802), bẵng đi 19 năm, sau đó dồn dập xuất hiện.
Theo thống kê của chúng tôi, danh tính của Nguyễn Công Trứ xuất hiện trong bộ
sử này ở 329 vị trí, tần số thuộc hàng cao nhất trong các triều thần dưới các
triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị. Điều khá đặc biệt là vào thời điểm Tự Đức năm
đầu, ông đã được vua chuẩn cho cáo lão về hưu, nếu theo thông lệ thì sử quan
chỉ còn chép về cái chết của các vị nguyên lão đại thần nữa là hết, nhưng tên
ông thì vẫn còn được chép tiếp khá nhiều (cả một đoạn dài trong Đại Nam liệt truyện) với nhiều những
biến cố đặc thù “hậu hưu trí”. Rất ít người, nếu không phải là không có ai,
được Thực lục (chứ
không nói Liệt truyện) chép kỹ
đến như ông, chép chi tiết đến từng bản tấu sớ, biểu chương, đến cả những
chuyện sinh hoạt! Trừ các vị vua, còn thì tất cả các nhân vật lịch sử
được Đại Nam thực lục điểm
danh nhiều nhất đều là các đại thần, làm quan tại triều lâu ngày, và cũng đảm
nhiệm lâu dài những cương vị cơ mật, trọng yếu bậc nhất của bộ máy. Nguyễn Công
Trứ là trường hợp ngoại lệ: ông chỉ được trao chức Thượng thư (Bộ Binh) trong
có 4 năm, mà 4 năm ấy ông lại đảm nhiệm chức phận Tổng đốc Hải Yên, hàm ngang
thuợng thư, nhưng việc chính lại giữ cương vị tỉnh thần là chủ yếu.”
Suốt cuộc đời
làm quan với nhà Nguyễn, ông đã giữ các chức vụ
- Biên Tu ở Quốc sử quán, năm 1820, sau khi ông đỗ đầu kỳ thi Hương ở Nghệ An.
- Thực thụ Biên Tu (1821).
- Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823).
- Tư nghiệp Quốc tử Giám (1824).
- Lang Trung Bộ Lại, Phủ Thừa phủ Thừa Thiên (1825).
- Hiệp Trấn trấn Thanh Hóa (1826), tham dự tiểu trừ cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở Nông Cống và Phan Bá Vành ở Nam Định. Năm này ông từ quan chức về cư tang cha ở quê nhà. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Quốc sử quán triều Nguyễn, quyển 20 – Tuyện Các Quan – Mục X đã ghi chép: “Vua nghĩ Trứ là người thanh liêm, giản dị, sai mang cho Trứ 100 lạng bạc”. Sau khi mãn tang, ông ra ra nhậm chức ngoài Bắc.
- Hình Bộ Tham Tri, coi Tào Hình tại dinh Tổng Trấn Bắc Thành (1826). Năm sau, 1927, ông dẫn quân đi tiểu trừ Phan Bá Vành, dồn họ về Trà Lũ, phá tan và bắt sống Vành cùng 765 dư đảng.
- Năm 1828, được triệu về Kinh, thăng Hình Bộ Hữu Tham Tri.
- Sau đó theo lời đề nghị của ông, được bổ chức Dinh Điền Sứ các hạt Nam Định và Ninh Bình, chiêu mộ dân đinh, khai khẩn đất hoang ở miền duyên hải, lập ra huyện Tiền Hải nhập vào tỉnh Thái Bình, và hai tổng, một vào huyện Nam Trực và một vào huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Năm 1829 ông lập huyện Kim Sơn, Ninh Bình. “Nguyên trước gần đó có bãi Tiền Châu bỏ hoang, giặc thường trốn núp ở đó, khi quan Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ đến, chiêu dụ dạy bảo dân, nhắm đo đất hoang ở Tiền Châu và hai bên bờ, chia cấp cho dân cùng, cả thảy được 27 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp, sổ đinh 2350 người, ruộng hơn 1890 mẫu, chia làm 7 tổng, tâu xin biệt lập một huyện, đặt tên là huyện Tiền Hải.” (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu)
- Năm 1829 ông khẩn hoang vùng bãi biển đây lau sậy nằm giữa hai con sông Càn và sông Đáy, lập thành huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Kim Sơn ngày nay nổi tiếng với xứ đạo Phát Diệm với mật độ dày đặc các nhà thờ Công giáo. Kim Sơn sản xuất gần 1/3 tổng sản lúa của tỉnh Ninh Bình và được UNESCO công nhận là vùng sinh quyển của thế giơi.
- Năm 1830, ông được gọi về kinh đô Huế, bổ nhiệm chức Hữu Tham Tri Bộ Hình.
- Năm 1831 bị giáng chức xuống 7 cấp, làm Tri Huyện ở Kinh
- Năm 1832, được thăng Lang Trung Nội vụ, rồi bổ nhiệm chức vụ Bố Chánh sứ Hải Dương. Tháng 10 năm này ông được thăng hàm Binh bộ Tham tri và giữ chức Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương và Quảng Yên).
- Năm sau, 1833, làm Tham Tán Quân Vụ, hợp cùng Tổng Đốc Lê Văn Đức dẫn quân đi trấn dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang trong suốt hai năm. Ông phá tan sào huyệt và đốt chết Vân trong rừng huyện Đế Định, Tuyên Quang. Sau khi đưa đoàn quân thắng trận về Kinh, “Trứ vào trước thềm ra mắt vua. Vua thân rót rượu ban cho để tỏ lòng yêu quý đáp công. Lại thưởng cho các đồ chơi quý báu; và ấm thự cho một người con Trứ làm Hiệu uý vệ Cẩm y” (Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện).
- Năm 1835, ông được phong thực thụ Binh Bộ Thượng Thư, giữ chức Tổng Đốc Hải Yên. Do đó ông còn được gọi là “Cụ Thượng Trứ”.
- Năm 1936, vì để một tù nhân phạm trọng tội vượt ngục và trốn mất, ông bị giáng 4 cấp, sau được phục 3 cấp.
- Năm 1839, bị giáng xuống Hữu Tham Tri
- Năm 1840, ông được thăng Đô Sát Viên Tả Đô Ngự Sử, rồi làm Chủ Khảo Trường Thi Hà Nội.
- Năm 1841, ông dâng sớ xin tòng chinh trong Nam, được phong làm Tán Lý Cơ Vụ. Ông cùng Tướng Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm đánh dẹp những cuộc nổi dây của dân Chân Lạp ở nhiều nơi. (Nước chân Lạp, Campuchia ngày nay, đã bị sát nhập vào Việt Nam năm 1835, lập thành Trấn Tây Thành, chia làn 32 phủ và 2 huyện, có một vị Đại tướng, một Tham tán đại thần, một Đề đốc, một Hiệp tán và 4 Chánh Phó Lãnh binh để coi mọi việc quân dân.) Ông cũng cùng Doãn Uẩn đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Hoàng tử Chân Lạp Nặc Ông Đôn với sự trợ giúp của quân Xiêm, đánh tam liên quân Xiêm - Chân Lạp. Ông được thăng Tham Tán Đại Thần.
- Do sự oán giận của người dân Chân Lạp với sự cai trị hà khắc, tham tàn của quan lại Việt Nam, giặc giả nổi lên nhiều nơi, đánh dẹp mãi nhưng không bình định được. Bình định được nơi này thì nơi khác lại nổi lên. Tình thế trở nên khó khăn. Cuối cùng quan quân phải bỏ Trấn Tây Thành, rút hết về An Giang. Do đó, ông bị giáng chức xuống Binh Bộ Lang Trung, giữ chức Tuần Phủ tỉnh An Giang. Khi dẹp giặc Lâm Sâm, chém được tướng giặc là Phiên Tăng, ông được thăng Binh Bộ Thi Lang, vẫn làm Tuần Phủ An Giang.
- Năm 1843, được thăng Binh Bộ Tham Tri.
- Tháng 10 năm 1843, do sự hãm hại của ông quan tổng Đốc An Hà (An Giang và Hà Tiên) Nguyễn Công Nhàn. Ông bị vu cáo buôn đồ gian nên bị giáng xuống làm lính thú ở Quảng Ngãi. Lúc đó ông đã 65 tuổi.
- Năm 1845, ông được triệu hồi về Kinh, bổ nhiệm làm Chủ sự Bộ hình.
- Năm sau, 1846, giữ chức Án Sát tỉnh Quảng Ngãi.
- Năm 1847, thăng làm Phủ Doãn phủ Thừa Thiên. Trong năm này ông xin về hưu trí nhưng Vua Thiệu Trị không cho.
- Năm Sau, 1848, khi Vua Tự Đức lên ngôi, ông lại xin nghĩ hưu trí. Ông được nhà vua chuẩn y cho hưu trí và cho thực thụ hàm Phủ Doãn Thừa Thiên.
Bản đồ những tỉnh thành nơi Nguyễn Công Trứ phục vụ trong đời làm quan của ông
Khi
cầm quân, Nguyễn Công Trứ là một tướng quân đầy mưu lươc, hết lòng trong công
việc để hoàn thành trách nhiệm được giao phó.Theo Sách “Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện”: “Năm thứ 8 (đời Vua Minh Mạng), vua xuống chiếu cho Trứ cùng viên
Thông ngoại quản Tiền quân là Phạm Văn Lí hội quân tiến đánh tên giặc thổ trước
ở Nam Định là Phan Bá Vành. Trước đây tên giặc ấy lẻn lút chiếm nơi bãi biển, tựa
chỗ hiểm rủ nhau tụ họp. Công Trứ đặt mưu lược, thường đánh phá được. Vua bảo
là: Nguyễn Công Trứ, gặp việc hết lòng làm không cẩu thả, thực không thẹn với sự
uỷ dùng. Rồi sau Trứ bắt được Bá Vành. Vua xuống chiếu thư khen ngợi, và thưởng
cho Trứ một hình núi bằng ngọc trắng, một hình con ngựa bằng mã não, một cái
khánh vàng và triệu về triều.”
Nguyễn Công Trứ là một vị quan thanh liêm chính trực. Trong thuật trị nước, ông đã đưa ra quan điểm rõ ràng về đạo làm quan, để là một nhà cai trị tốt:
“Giữ lòng trung ái,
Chăm đạo dâu con,
Phát triển nông trang,
Trừ bỏ dị đoan,
Sửa đổi phong tục,
Thanh thải tham tàn,
Tiến cử tài đức,
Giữ nghiêm luật lệ”. (Thái Bình Thập Sách – NCT)
Ông là một vị quan chính trực, đề cao việc trị quốc bằng luật pháp, thưởng phạt công minh, chăm lo đời sống cho người dân có công ăn việc làm, đặc biệt là khai khẩn đất hoang, giúp người nghèo có nghề nghiệp. Nguyễn Công Trứ đã dâng sớ kín cho Vua Minh Mạng, đề nghị với nhà vua 3 điều quan trọng về thuật trị nước:
Ông là một vị quan chính trực, đề cao việc trị quốc bằng luật pháp, thưởng phạt công minh, chăm lo đời sống cho người dân có công ăn việc làm, đặc biệt là khai khẩn đất hoang, giúp người nghèo có nghề nghiệp. Nguyễn Công Trứ đã dâng sớ kín cho Vua Minh Mạng, đề nghị với nhà vua 3 điều quan trọng về thuật trị nước:
- Pháp cấm phải nghiêm ngặt, để trừ tuyệt bọn giặc;
- Thưởng phạt phải công minh, để khuyên răn quan lại;
- Khai khẩn ruộng hoang, để cho dân nghèo có nghề nghiệp.” (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu)
Khi làm Dinh Điền
Sứ, ông đã cho điều tra, trừng trị nghiêm khắc
những quan lại sâu dân mọt nước tại
vùng Nam Ðịnh, Thái Bình.
“Chánh án ở Nam Ðịnh là Phạm Thanh, thư ký Bùi Khắc Kham tham nhũng lắm, khiến giải
đến chợ chém ngang lưng ; Tri phủ Nguyễn Công Tuy tham tàn, tội phải
chết; lại xét Ðồng tri phủ
Ứng Hoà Nguyễn Thọ Vực,
Tri huyện Ðại An Nguyễn Văn Nghiêm để nha lại làm những
điều tệ, phải cách chức
cả.” (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu)
Là một
nhà cai trị giỏi, khi làm việc ông hoạch định kế
sách rõ rệt, đưa ra chinh
sách để thi hành từ giáo dục, hành chính, công ăn việc làm đến
an ninh, luật pháp. Sách
sử thời đó đã ghi lại về ông: “Mới
đặt huyện Kim Sơn thuộc về phủ
Yên Khánh đạo Ninh Bình,
lựa người đặt làm Tri huyện
để khuyên dạy dân ; nhà cửa, lương tháng, ngưu canh điền khí thời đều cấp
cho dân, y như lệ huyện Tiền Hải
; còn ruộng thiệt trưng và ruộng thành thuộc thời lấy
thuế từ năm nay, ruộng lưu hoang thì đến năm Minh Mệnh thứ 12 [1831] sẽ đánh thuế; đó là theo lời Nguyễn Công Trứ xin. Công Trứ lại dâng sớ
xin lập ra quy ước, khiến cho dân biết
kiềm thúc, lâu cũng nên
thói hay được:
- Lập nhà học (đặt ruộng học tha thuế, khiến dân cày ruộng để làm học bổng ; học trò 8 tuổi phải vào học)
- Ðặt xã thương, chăm dạy bảo dân làm ăn.
- Cẩn việc phòng giữ.
- Nghiêm việc khuyên răn.
Ngài [vua] khen là phải.” (Quốc Triều
Chánh Biên Toát Yếu)
Trong đời
làm quan của ông, chúng
ta thấy ông đã giữ đúng đường lối
ông đã đề ra, sống và làm việc vì dân vì nước. Ông không lợi dụng quan chức
để làm giàu cho bản thân và gia đình. Đến Vua Minh Mạng cũng nghĩ ông là người thanh liêm chính trực. Quốc Sữ
Quán Triều Nguyễn đã có chép về điều này: “Vua nghĩ Trứ
là người thanh liêm, giản dị”. (Đại
Nam Chính Biên Liệt Truyện)
Với
lòng trung trực, dù bị giáng chức nhiều lần,
ông không ngừng nỗ lực vươn lên khỏi
nghịch cảnh để đạt
được những điều mình mong muốn.
“Số
khá bĩ rồi thời lại thái
Cơ thường đông hết hẵn sang xuân.” (Vịnh
Cảnh Nghèo - NCT)
“Còn trời,
còn đất, còn non nước
Có lẽ
ta đâu mãi thế này ?”
(Quân Tử Cố Cùng – NCT)
Tuy là một vị quan chính trực, có phong độ khí khái, đầy tinh thần
trách nhiệm, Nguyễn Công Trứ có thái độ ngông ngạo với cuộc đời, với nhân tình
thế thái, những lần ‘lên voi xuống chó’ trong quan trường. Ông có tư tưởng coi
rẽ lợi danh, chán ngán tình đời.
“Đù mẹ
nhân tình đã biết rồi
Nhạt như nước ốc bạc
như vôi” (Thế
tình bạc bẽo - NCT).
“Liếc
mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay” (Thú Tiêu Dao – NCT)
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay” (Thú Tiêu Dao – NCT)
“Chuyện
cũ trải qua đã chán mắt
Việc sau nghĩ lại chẳng thừa hơi” (Con Đường Làm Quan - NCT)
Việc sau nghĩ lại chẳng thừa hơi” (Con Đường Làm Quan - NCT)
“Khéo khôn ai cũng tranh phần được
Trong sạch ta thời giữ mực thường” (Khuyên Người Đời – NCT)
Trong sạch ta thời giữ mực thường” (Khuyên Người Đời – NCT)
“Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phung phí hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay” (Quân Tử Cố Cùng - NCT)
Quen thói phung phí hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay” (Quân Tử Cố Cùng - NCT)
“Thế
thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay” (Thế Thái Nhân Tình – NCT)
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay” (Thế Thái Nhân Tình – NCT)
“Lênh đênh một chiếc
thuyền nan,
Một cô thiếu nữ một quan đại thần.
Ban ngày quan lớn như thân,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Ban ngày quan lớn như cha,
Ban đêm quan lớn rầy rà như con.” (Đùa Quan Đại Thần – NCT)
Một cô thiếu nữ một quan đại thần.
Ban ngày quan lớn như thân,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Ban ngày quan lớn như cha,
Ban đêm quan lớn rầy rà như con.” (Đùa Quan Đại Thần – NCT)
Có
lần nghe chuyện về ông, vua Minh Mạng đã gọi ông là “thằng cuồng”.
Sách “Quốc Sử Di Biên” có đoạn viết:
“Trứ vốn tính hào phóng, thường đắp phương trượng tam sơn sau công đường, trên núi làm chùa, đào hồ thả sen, bắc cầu trên hồ, nuôi 25 đồng nữ sớm tối cúng Phật.
Sách “Quốc Sử Di Biên” có đoạn viết:
“Trứ vốn tính hào phóng, thường đắp phương trượng tam sơn sau công đường, trên núi làm chùa, đào hồ thả sen, bắc cầu trên hồ, nuôi 25 đồng nữ sớm tối cúng Phật.
Trước kia đóng đồn ở Vân Trung,
bắt được 3 trai, 7 gái người Thổ nuôi làm gia thuộc, cho hát xướng, ngày đêm
cùng tân khách và bè bạn đánh tổ tôm, hút thuốc, nghe truyện Kim Vân Kiều, tự
xưng là Lão Trang. Thường ngày họp nhau uống rượu, làm thơ ca quốc âm, có ý coi
rẻ lợi danh. Việc này lọt đến tai vua, vua cười nói rằng: Thói cũ thằng cuồng
vẫn hào phóng như thế đấy!”.
Nguyễn Công Trứ rất mê hát Ả Đào và Ca Trù. Bản thân ông cũng là một nghệ nhân đánh đàn đáy trong nghệ thuật ca nhạc này. Ông say mê và luôn theo đuổi loại hình nghệ thuật này ngay từ thuở hàn vi cho đến lúc công thành danh toại, chức trọng quyền cao và khi đã về già cưỡi bò ngao du sơn thuỷ. Ông nổi tiếng là một người đa tình. Giai thoại dân gian có kể rằng:
Nguyễn Công Trứ rất mê hát Ả Đào và Ca Trù. Bản thân ông cũng là một nghệ nhân đánh đàn đáy trong nghệ thuật ca nhạc này. Ông say mê và luôn theo đuổi loại hình nghệ thuật này ngay từ thuở hàn vi cho đến lúc công thành danh toại, chức trọng quyền cao và khi đã về già cưỡi bò ngao du sơn thuỷ. Ông nổi tiếng là một người đa tình. Giai thoại dân gian có kể rằng:
“Gần làng Uy Viễn có làng Cổ Đạm là
một phường Ca Trù nổi tiếng vào loại nhất nước, có nhiều đào nương tài giỏi và
xinh đẹp, trong số đó có nàng tên là Hiệu Thư. Tương truyền cô đào ấy phong tư
diễm lệ, tài hoa xuất chúng, giọng hát tuyệt hay, nhưng tính tình có lẽ vì thế
mà kiêu kỳ, chỉ tiếp những vương tôn công tử, những người nổi danh trong chốn.
Nguyễn Công Trứ say mê Hiệu Thư, nhưng vì nhà nghèo, không thể quen thân gần
gũi được nên đành “kính nhi viễn chi” mà thôi. Vốn là một tay đàn giỏi có tiếng
trong vùng, cậu nho sinh Trứ liền tìm cách xin vào làm kép cho Hiệu Thư, thường
nàng đi hát ở đâu thì chàng cũng được cắp đàn đi theo.
Một
tối nọ gánh Ca Trù Cổ Đạm được
mời sang hát ở Vĩnh Yên cách đó khá xa. Hiệu Thư được đưa đi phục vụ. Nàng xin ông bầu
gánh mời Nguyễn Công Trứ – lúc này vừa đậu Giải
nguyên nhưng chưa được
triều đình gọi, vẫn là hàn sĩ sống
ở quê – đi theo cùng để vừa hoạ
đàn vừa đặt lời ca. Trên đường
đi, không biết vì cớ gì mà hai người – chàng và nàng – tụt lại sau mọi
người, chỉ có một đứa
tiểu đồng nhỏ theo hầu.
Mải mê nói chuyện, lúc đến giữa cánh đồng
rộng, Nguyễn Công Trứ giả vờ
sửng sốt vì phát hiện ra mình đã bỏ quên dây đàn ở nhà, và ngon ngọt nhờ chú tiểu
đồng chạy về lấy
hộ. Thế rồi… trên cánh đồng
lúa chập chờn chỉ còn đôi trai tài gái sắc… cũng chập
chờn… và…tiếng “Ứ hự”
vang lên kỳ diệu, lạ lùng.
Ít ngày sau đêm đó, Giải nguyên Trứ được triệu
vào Kinh nhậm chức…
Rồi
nhiều năm trôi qua…Nguyễn Công Trứ đã trở thành Tham tri bộ
Binh kiêm Tổng đốc Hải An. Một
lần, nhân ngày vui, ông
cho tổ chức cuộc hát xướng
tại tư dinh, nhờ các quan sở tại mời
các danh ca đến phục vụ. Chẳng
ngờ trong số những người
được mời đến lại
có cả cô đào Hiệu Thư. Khi bước ra trình diễn, ngước mắt
trông lên, nhận ra quan Tổng đốc ngồi
nghe hát kia chính là chàng kép Trứ
ngày nào trên cánh đồng
lúa huyện nhà, nàng liền cất giọng:
Giang san một gánh giữa
đồng,
Thuyền
quyên “ứ hự” anh hùng nhớ chăng?
Nghe câu hát, Nguyễn Công Trứ như giật mình bởi một cảm
giác vừa nhói đau, vừa ngọt ngào từ
đâu đó sâu trong ký ức hiện về. Định
thần nhìn lại nàng ca kỹ vừa hát lên câu đó, quan Tổng đốc
chợt thảng thốt hỏi:
- Có phải…
Hiệu Thư đó không?
Khi cuộc
hát tàn, hai người ngồi lại tâm sự,
nàng kể cho chàng nghe
quãng đời chìm nổi, phiêu bạt của mình kể
từ đêm trên cánh đồng năm ấy… Khi biết
Hiệu Thư vẫn chưa có chồng, quan Tổng đốc liền
quyết định cưới nàng làm thiếp.”
(36 giai thoại về Nguyễn Công Trứ)
Ghi lại
câu chuyện trên, Nguyễn Công Trứ để lại
một bài thơ:
“Liếc
trông đáng giá mấy mười mươi
Đem lạng
vàng mua lấy tiếng cười,
Giăng xế
nhưng mà cung chẳng
khuyết
Hoa tàn song lại nhuỵ
còn tươi.
Chia đôi duyên nợ, đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả
mười,
Vì chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi” (Bỡn
Cô Đào Già – NCT)
V.
HƯU TRÍ
Sau
28 năm phục vụ Nhà Nguyễn, làm quan dưới triều Vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu
Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883), Nguyễn Công Trứ nghĩ hưu năm 1848. Khi
đã từ quan về hưu trí, ông làm
nhà bên cạnh ngôi chùa trên núi để ở. Từ đây ông sống cuộc đời nhàn tản, bỏ
qua công danh việc đời, ngao du sơn thủy. Ông vui cùng bầu rượu túi thơ, cầm kỳ
thi tửu. Ông sống vui thú với cái nhàn, với âm nhạc, hát nói, hát ả đào, ca
trù, vui với ca nhi, bài bạc, hưởng thụ cuộc đời. Cuộc đời hưu trí của ông đầy
tính năng động, du ngoạn đó đây, vui hưởng từ những thú thanh cao cho đến trần
tục. Ông thoát vòng danh lợi, sống thanh nhàn, quên đi những ba đào sóng gió
chốn quan trường.
“Chen
chúc lợi danh đà chán ngắt
………………………………….
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ,” (Thoát Vòng Danh Lợi – NCT)
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ,” (Thoát Vòng Danh Lợi – NCT)
“Nợ tang bồng trang trắng,
vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.” (Chí Làm Trai – NCT)
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.” (Chí Làm Trai – NCT)
“Tổ tôm tên chữ gọi hà sào
Ðánh thì không thấp cũng không cao
Ðược thì vơ cả, thua thì chạy
Nào!” (Đánh Tổ Tôm – NCT)
Ðánh thì không thấp cũng không cao
Ðược thì vơ cả, thua thì chạy
Nào!” (Đánh Tổ Tôm – NCT)
“Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn,
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh,” (Kẻ Sĩ – NCT)
Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn,
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh,” (Kẻ Sĩ – NCT)
“Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” (Chữ Nhàn – NCT)
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” (Chữ Nhàn – NCT)
“Chơi
cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay.” (Cầm Kỳ Thi Tửu - NCT)
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay.” (Cầm Kỳ Thi Tửu - NCT)
“Càng già, càng dẻo, càng dai!” (Giả Cưới Nàng Hầu
– NCT)
“Cuộc hành lạc bao nhiêu
là lãi bấy
Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù?” (Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi – NCT)
Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù?” (Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi – NCT)
“Cuộc tỉnh say bàn rượu chén trà,
Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống.
Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống.
………………………………………..
Này
tiếng đàn tinh tính tinh tình tinh.” (Thú
Thanh Nhàn – NCT)
Tính
ngông ngạo của ông cũng thể hiện khi đã về hưu trí. Khi đi du ngoạn đó đây ông
không dùng ngựa xe mà chỉ ngất ngưởng trên lưng con bò vàng có đeo nhạc ngựa,
đủng đỉnh ngắm cảnh, tiêu dao đất nước.
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
…………………………………………
Gót tiên theo đủng đỉnh một
đôi dì
………………………………………….
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng” (Ngất Ngưỡng – NCT)
“Chẳng lợi danh chi lại hoá hay!
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng” (Ngất Ngưỡng – NCT)
“Chẳng lợi danh chi lại hoá hay!
Chẳng ai
phiền luỵ chẳng ai rầy,” (Thú Tiêu Dao – NCT)
![]() |
Đền thờ Uy Viễn Hầu Nguyễn Công Trứ ở xã Lưu Phương, huyện Tiền Hải |
Ông hay viếng
cảnh chùa và trùng tu nhiều chùa trong vùng. Năm 1852,
dân chúng huyện Tiền Hải nhớ
ơn ông,
đã cùng nhau xây dựng
Sinh Từ, thờ sống ông khi ông 75 tuổi. Họ
đón ông đến
Sinh Từ, làm lễ long trọng, coi như vị thần sống.
Năm 1856, dân chúng huyện
Kim Sơn cũng đã lập
Sinh Từ, đền thờ sống
để thờ ông ở xã Quang Thiện.
Có mấy ai được người dân yêu thương, tự lập đền để
thờ phụng ngay khi còn sống?
![]() |
Đên thờ Nguyễn Công Trứ ở huyện Kim Sơn |
Năm 1858, nghe tin người Pháp và Tây Ban Nha đến đánh Đà Nẳng, Nguyễn Công Trứ, lúc đó đã 81 tuổi, dâng sớ xin vua cho ra trận tiền để
bảo vệ đất nước.
Vua Tự Đức không chấp thuận. Cuối
năm 1858, ông mất tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xân, tỉnh
Hà Tỉnh, ngày 14 tháng 11
âm lịch, hưởng thọ 81 tuổi.
Trương truyền
rằng trước khi mất, ông dặn con cháu không nên bày cuộc tang lễ để khỏi
tốn kém, làm khổ gia đình và dân làng. Cứ để ông nằm
nguyên trên chõng như khi đang ngủ,
thả xuống huyệt là xong! Ông có cuộc sống
giản dị và khoáng đạt, không khoe khoang hình thức, không chấp nê vào những lễ nghi tốn
kém mang tính khoa trương của người đời.
Hiện
nay còn rất nhiều từ đường thờ ông ở hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải và làng Uy
Viễn. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ và tôn ông làm Thần
hoàng.
![]() |
Hát Ả Đào & Ca Trù |
Hằng
năm cứ đến ngày 14 tháng 11 âm lịch, người dân huyện Kim Sơn đều tổ chức lễ tế Nguyễn
Công Trứ ở Truy Tư Từ trong Đền Nguyễn Công Tứ trong 3 ngày 13, 14 và 15 tháng
11 để tỏ lòng thành kính biết ơn và ngưỡng mộ ông. Ngày 13 tế Yết Cáo, ngày 14
tế Chính Kỵ, ngày 15 tế Tạ. Trong những ngày lễ đó có những đào nương hát ả đào
đến hát lễ. Đào nương vừa hát vừa sử dụng cặp phách gõ tiết tấu nhịp lên một
thanh gỗ nhỏ hình khối chữ nhật. Nhạc đệm gồm có một nghệ nhân đánh đàn đáy
(một cây đàn đặc thù của Việt Nam dùng trong ca trù, có cần đàn thật dài và
tiếng đàn trầm đục) hòa đàn với một nghệ nhân đánh trống đế, cầm chầu với một
que tre nhỏ. (Trống đế có hình trụ nhỏ, phát ra tiếng trống âm cao.) Họ hát
những bài hát nói, ca trù của Nguyễn Công Trứ.
VI. THI VĂN SÁNG TÁC
Sức
sáng tác của Nguyễn Công Trứ thật dồi dào. Là một người thông minh có tài về
văn chương chữ nghĩa, gắn bó với nghệ thuật ca trù hát nói, có triết lý về đời
sống rõ ràng, có lý tưởng về đạo lập thân, chí nam nhi, tinh thần kẻ sĩ, tư
tưởng hưởng nhàn, tình cảm lãng mạn. Tự bản thân, ông đã nếm trãi, sống và lớn
lên trong loạn lạc chiến tranh, trong đời sống khắc khổ của gia đình và giáo
dục nghiêm nhặc của phụ thân. Ông cố công đèn sách để ra làm quan thi thố tài
năng với đời. Tuy nhiên, ông chỉ đỗ đạt ở tuổi 41, đã là một trung niên đã quá
tuổi “tam thập nhi lập” theo quan niệm của xã hội Khổng giáo. Trong cuộc đời
quan lại, ông gặp nhiều thăng giáng. Khi thì được Vua trọng dụng tin cẩn, cho
tiền, thưởng quà; khi thì bị nghiêm khắc trừng phạt, truất giáng nặng nề; khi
thì bị nghi kỵ ganh ghét của quan lại triều đình. Từ đó ông đã hình thành những
khuynh hướng tư tưởng, trong cách sống và hành động của ông. Chính đó là những
chất liệu dồi dào để ông dùng thi văn thể hiện những khuynh hướng tư tưởng đó,
diễn tả những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn. Một cách tổng quát, chúng ta
thấy các khuynh hướng tư tưởng sau đây trong thi văn sáng tác của ông:
- Tu thân theo đạo Nho –
“Nhân nghĩa tước trời
thì phải giữ” (Vui Cảnhnh Nghèo – NCT)
“Có Trung hiếu, nên đứng
trong trời đất” (Phận Làm Trai – NCT)
“Đạo
lập thân phải giữ lấy
cương thường.”
(Kẻ Sĩ – NCT)
- Chí nam nhi vùng vẫy –
“Chí Làm Trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ
sức vẫy vùng trong bốn bể” (Chí Làm Trai – NCT)
- Học hành thi cử để ra làm quan, tạo danh phận với núi sông –
“Tài bộ
thế, khoa danh, ờ, lại có!” (Đường
Công Danh – NCT)
“Cái nợ
cầm thư phải trả xong” (Đi Thi Tự
Vịnh – NCT)
- Sống tích cực, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp –
“Số
khá bĩ rồi thời lại thái” (Vịnh
cảnh Nghèo – NCT)
“Đi không chẳng lẽ
lại về không” (Đi Thi Tự Vịnh – NCT)
- Sống tốt, trong sạch ở đời –
“Ăn ở sao cho trải sự đời”
(Cách Ở Đời - NCT)
“Trong sạch
ta thời giữ mực thường”
(Khuyên Người Đời – NCT)
- Phê bình nhân tình thế thái –
“Đã có đồng
tiền dở cũng hay” (Thế
Thái Nhân Tình – NCT)
“Nghĩ sự
đời thêm cảm nỗi phù du” (Vịnh
Tiền Xích Bích –NCT)
- Đem hết tài sức phục vụ quốc gia dân tộc, trị nước yên dân –
“Phải
hăm hở ra tài kinh tế” (Phận Sự
Làm Trai – NCT)
“Đem quách cả sở
tồn làm sở dụng.” (Kẻ
Sĩ – NCT)
- Sống nhàn –
“Nên phải lấy chữ nhàn làm trước”
(Chữ Nhàn – NCT)
“Năm ba chú tiểu đồng
lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc,
thanh sơn,” (Kẻ Sĩ – NCT)
- Hưởng lạc, tình cảm lãng mạn –
“Chơi cho lịch
mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người
biết tay.” (Cầm Kỳ Thi Tưởu – NCT)
“Làm
chi ta đã làm chi được,
Làm được
ta làm đã lắm khi” (Bỡn Nhân Tình – NCT)
“Càng
già, càng dẻo, càng dai !” (Giã Cưới Nàng Hầu –
NCT)
- Mang tư tưởng đạo Phật, đời là bể khổ, hư ảo, vô nghĩa –
“Có có không không, lo hết kiếp,” (Tự
Tình – NCT)
“Trời
đất hễ có hình là có hoại,” (Vịnh Nhân Sinh – NCT)
Là
một người có biệt tài về chữ Nôm, ông đã để lại một gia sản thi văn bằng chữ
Nôm phong phú và đa dạng. Theo Giáo Sư Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam Văn Học Sử
Giản Ước Tân Biên”, Nguyễn Công Trứ đã để lại
- 1 bài phú (Hàn Nho Phong vị Phú)
- 52 bài thơ luật, đa số là thể thất ngôn bát cú. Ông cũng viết theo thể tứ tuyệt, liên hoàn và yết hậu. Bốn bài liên hoàn nổi tiếng của ông có tựa là “Than Nghèo”. Sau đây là thí dụ một bài thơ của Nguyễn Công Tứ viết theo thể Yết hậu:
Ðánh thì không thấp cũng không cao
Ðược thì vơ cả, thua thì chạy
Nào!” (Đánh Tổ Tôm – NCT)
Ðược thì vơ cả, thua thì chạy
Nào!” (Đánh Tổ Tôm – NCT)
- 63 bài hát nói
- 21 câu đối Nôm
- 2 bản tuồng (Tửu Hội va Lý Phụng công)
- Nhiều bài sớ bằng Hán văn dâng lên vua khi ông đang làm quan để giải bày về thuật trị nước yên dân.
(Xin click vào tựa bài thơ để mở bài thơ)
- Bài ca ngất ngưởng
- Bỏ vợ lẽ cảm tác
- Bỡn cô đào già
- Bỡn nhân tình
- Ca tự biệt
- Cách ở đời
- Cái già theo đuổi
- Câu đối tự thuật
- Cây cau
- Công khai thác
- Cảm tác lúc về già
- Cảnh xa nhà
- Cầm kỳ thi tửu bài 1
- Cầm kỳ thi tửu bài 2
- Cầm kỳ thi tửu bài 3
- Chí làm trai
- Chí nam nhi
- Chữ nhàn
- Chữ tình
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi
- Con tạo ghen ghét
- Duyên gặp gỡ
- Đánh tổ tôm
- Đánh thức người đời
- Đùa quan đại thần
- Đời người thấm thoắt
- Đi thi tự vịnh
- Đường công danh
- Gánh gạo đưa chồng
- Hàn nho phong vị phú
- Hành tàng
- Hoạ bài Than nghề của Đình Trai
- Kẻ sĩ
- Khất nợ thua tổ tôm
- Khuyên người đời
- Làm quan bị cách
- Lời tiểu thiếp tự tình
- Muộn thành đạt
- Nợ công danh
- Nợ nam nhi
- Nợ phong lưu
- Nợ tang bồng
- Nghĩa người đời
- Nhà thờ thất hoả
- Nhàn nhân với quý nhân
- Nhân tình thế thái
- Phận anh nghèo
- Phận sự làm trai
- Phường danh lợi
- Sầu tình
- Tang bồng là nợ
- Tài tình
- Tết nhà nghèo
- Tự tình
- Tự thuật 1
- Tự thuật 2
- Tự thuật bài 1 (Quân tử cố cùng)
- Tự thuật bài 2 (Hội gió mây)
- Tự thuật bài 3 (Thú điền viên)
- Tự thuật bài 4 (Thú ẩn dật)
- Than cảnh nghèo
- Thích chí ngao du
- Thói đời
- Thú nguyệt hoa
- Thú tổ tôm
- Thú thanh nhàn
- Thất thập tự thọ
- Thầy và tớ
- Thế tình đối với người nghèo
- Thế tình đen bạc
- Thế tình bạc bẽo
- Thoát vòng danh lợi
- Thua bạc
- Thơ đề mo cau
- Trách đời
- Trách người đời
- Trách tình nhân
- Trò đời
- Trống đại cổ
- Trong trần mấy mặt làng chơi
- Trường An hoài cổ
- Trương Lương
- Tuổi già cưới vợ hầu
- Tương tư
- Uống rượu tự vịnh
- Vinh nhục
- Vịnh đồng tiền
- Vịnh cây thông
- Vịnh cây vông
- Vịnh cảnh Hà Nội
- Vịnh cảnh nghèo
- Vịnh chữ tình
- Vịnh Di, Tề
- Vịnh Hàn Tín
- Vịnh hậu Xích Bích
- Vịnh hồ Tây
- Vịnh Khuất Nguyên
- Vịnh mùa đông
- Vịnh mùa đông (hát nói)
- Vịnh mùa hạ
- Vịnh mùa thu
- Vịnh mùa xuân
- Vịnh nhân sinh
- Vịnh Phật
- Vịnh sầu tình
- Vịnh sự đời
- Vịnh tỳ bà
- Vịnh Thuý Kiều
- Vịnh tiền Xích Bích
- Vịnh Trương Lưu Hầu
- Vịnh văn võ
- Vô cầu
- Vui cảnh nghèo
- Yêu hoa
VII. KẾT
Tóm
lại, Nguyễn Công Trứ là một nhân tài của đất nước. Ông là một nhà trí thức khoa
bảng đa năng đa tài, đóng góp tích cực cho triều Nguyễn, xây dựng quê hương dân
tộc qua nhiều lãnh vực. Ông là một
- nhà giáo dục với chức vụ Tư Nghiệp Quốc Tử Giám, Tòng Tứ phẩm, lãnh đạo Trường Đại học ở Kinh đô. Ông chấm thi và là Chủ Khảo Trường thi Hà Nội. Khi làm Dinh Điền Sứ, ông đã xin Vua lập trường học cho dân, trẻ em tám tuổi phải đi học.
- nhà viết sử khi là việc ở Quốc Sử Quán với chức vụ Biên Tu
- nhà lãnh đạo quản trị một vùng hành chính, cai trị xử phạt nghiêm minh, từ cương vị đứng đầu một Huyện (Tri Huyện Đường Hào) cho đến cấp liên tỉnh (Tổng đốc Hải Yên gồm hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên – Quảng Ninh ngày nay)
- nhà quân sự đa mưu túc trí, một võ tướng, cầm quân đánh dẹp thành công các cuộc nổi dậy ở nhiều địa phương, đánh quân Xiêm (Thái Lan) và Chân Lạp (Kampuchia), làm đến chức Binh Bộ Thượng Thư
- quan tòa theo đúng luật pháp, thưởng phạt rõ ràng
- nhà tư tưởng với kế sách cai trị đất nước hiệu quả, với triết lý sống ở đời
- nhà tâm lý, biết vận động để người dân ủng hộ các công trình khai hoang của ông; biết tâm lý của kẻ địch để có kế hoạch hành động hiệu quả như khi đi dẹp cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành
- thi sĩ với sức sáng tác dồi dào, để lại nhiều bài thơ phú được yêu thích
- nghệ nhân trong nghệ thuật hát Ả Đào và Ca Trù, là tác giả nhiều bài Hát nói nổi tiếng và là nghệ nhân sử dụng đàn Đáy
- nhà doanh điền biết lo cho dân, hiệu quả trong việc khai khẩn đất hoang để dân chúng có công ăn việc làm, đặc biệt là người nghèo.
Xin
được mượn lời ghi của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn về Nguyễn Công trứ để làm phần
kết cho bài viết này:
“Công Trứ là người trác lạc,
có tài khí, có tài làm văn càng giỏi về quốc âm, làm ra thi ca rất nhiều, khí
hào mại, phổ đầy ở trong âm luật; đến nay hãy còn truyền tụng. Trứ làm quan thường
bị bãi cách rồi lại được cất nhắc lên ngay; tỏ sức ở chiến trường nhiều lần lập
công được chiến trận. Buổi đầu Trứ lĩnh chức Danh Điền, sửa sang mới có trong một
năm mà các việc đều có đầu mối, mở mang ruộng đất, tụ họp lưu dân, thành ra mối
lợi vĩnh viễn. Khi tuổi già về nghỉ, tức thì bỏ qua việc đời, chơi thú sơn thuỷ,
trải hơn mười năm có cái hứng thú phớt thoảng ra ngoài sự vật. Đến nay người
ta, phần nhiều tưởng đến phong độ khí khái của ông. Sau khi Trứ mất, các huyện ấp
do ông lập ra đều dựng đền để thờ.”
(Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện).
Thật đáng khâm phục!
Nguyễn Đăng Thảo
Adelaide 28/3/2015
Tài Liệu Tham Khảo
Phạm Thế Ngũ Việt Nam Văn
Học Sử Giản ước Tân Biên – Văn Học Lịch Triều: Việt Văn, Quốc Học
Tùng Thư, Sài Gòn, Đại Nam xuất bản lại, Glendale, California, USA, không đề
ngày
Cao Xuân Dục Quốc Triều
Chánh Biên Toát Yếu, quyển 3, Thế kỷ 20, 1908, Quốc Sử
Quán Triều Nguyễn dịch năm 1925, Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa xuất bản, Sài Gòn, 1972
Dương Quảng Hàm Văn Học Việt Nam – Hiệu đính theo Chương trình Trung Học, Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản, Sài Gòn, Đại Nam xuất bản lại, Glendale, California,
USA, không đề ngày
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn Đại Nam Liệt Truyện – Chính Biên – Nhị Tập,
quyển 20, người dịch:
Nguyễn Mạnh Duân, Đỗ Mộng Khương, Ngô Hữu Tạo, Phạm Huy Giu, Viện Sử Học Việt
Nam, Tái bản lần thứ 2, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006
Phan
Thúc Trực Quốc Sử Di Biên, người dịch: Đỗ Mộng Khương, Viện Sử Học, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2009
Trần
Trọng Kim Việt Nam Sử Lược, Quyển 2, Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản, Sài Gòn, 1971, Đại Nam xuất bản lại, Glendale, California, USA, không đề ngày
Huyền
Li 36 Giai Thoại Về Nguyễn
Công Trứ, Văn Hóa Nghệ An, 2009, <http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/36-giai-thoai-ve-nguyen-cong-tru> viewed on 22-3-2015
Trần Gia Phụng Học Trò Trong Quảng Ra Thi,
bài thuyết trình tại Đại hội Quảng Nam-Đà Nẵng ngày 9-11-2013 tại Toronto, <http://www.phanchautrinhdanang.org/hoctro.html> viewed on 22-3-2015
Trần Ngọc Vương Kỷ niệm 150 năm ngày mất của Nguyễn Công Trứ: Còn Nhiều Điều Vỡ Lẽ Về
Ông Đang Chờ Phía Trước, Tia Sáng, Bộ Khoa Học và Công nghệ, 2009, <http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=96&News=2603&CategoryID=30> viewed on 22-3-2015
No comments:
Post a Comment